Chers collègues,
Après une assez longue période de tâtonnements, voici enfin le fruit de mes efforts continus.
J’ai le grand plaisir de mettre à votre disposition un e-portfolio que j’ai conçu comme outil d’accompagnement à mon auto-formation, et en tant qu’enseignante-chercheur-formateur (ou ... chercheuse-formatrice ?), ceci dans le but de favoriser des échanges et contacts avec des collègues d’ici et d’ailleurs.
J’aurais aimé un outil plus approprié (pour plus de facilité dans la conception et dans la lecture), mais je n’en ai pas trouvé. Je compte donc sur votre compréhension.
Si les jeunes collègues y trouvent quelque utilité pour leurs réflexions, ou pour alimenter et enrichir leur vécu professionnel, ce sera à ma très grande joie, et j’en serai bien honorée.
Je compte aussi sur vos remarques, suggestions et propositions (qui seront ajoutées en fin de chaque article ou en bas de la page) pour pouvoir améliorer cet outil. Vous pourriez de même me les communiquer par email (phamthi.anhnga@yahoo.fr).
Avec mes sincères remerciements,
Et Bonne Année du Buffle !
Anh Nga
lundi 11 août 2025
vendredi 1 août 2025
samedi 26 juillet 2025
Mạ chồng tôi
Ban đầu chưa quen, những lúc nhìn thấy mạ thấp thoáng từ xa, tôi rất e ngại trước dáng dấp cao gầy xương xẩu của mạ. Có thể thuở xưa mạ cũng đã có một thời tròn trĩnh, thậm chí mũm mĩm, nhưng không hiểu sao sự gầy ốm của mạ thời đó đã gây cho tôi ấn tượng đáng ngại về một hình ảnh mẹ chồng chua cay nghiệt ngã. Hồi ấy, tình cảm giữa chúng tôi đã bắt đầu thắm thiết và cả hai đều có ý định lâu dài với nhau, và thú thật tôi hơi chùn lòng khi nghĩ đến cảnh mẹ chồng nàng dâu đang có vẻ không lấy gì làm sáng sủa. Rồi dần dà, với những dịp tiếp xúc với mạ ngày càng nhiều, tôi bắt đầu cảm thấy an tâm hơn, thậm chí rất thích cái cười "khoả khoả" đầy bao dung của mạ. May mắn thay cho tôi, mạ là người nhân ái, hiền từ, hết lòng thương yêu con cháu và tràn đầy đức hy sinh.
Cho đến cuối đời, tôi vẫn không sao quên được ngày anh quyết định giới thiệu tôi với mạ. Do những năm khốn khó gạo châu củi quế ấy mạ không ở nhà mà xuống tạm trú ở chỗ mạ đang mở quán giải khát để có đồng ra đồng vào lo cho gia đình, hôm ấy anh hẹn tôi đến nhà anh, và cũng hẹn mạ về nơi ấy gặp tôi. Tôi cảm thấy khá căng thẳng khi ngồi bên anh đợi mạ đến. Vẫn như mọi khi, chuẩn bị đón tôi anh ra hái ở vườn nhà một cành hoa dại, cắm đơn sơ trên bàn. Dường như anh cũng hồi hộp không kém tôi, tay chân cứ luống cuống đến buồn cười. Khi mạ đến, anh báo hiệu cho tôi rồi ra ngoài. Một lúc, anh trở vào, tay cầm một quả thanh trà đã gọt vỏ và cắt sẵn thành bốn phần, nói của mạ mang đến. Anh nói: "Cứ ăn đi, chút nữa bà cụ sẽ ra". Tôi cầm miếng thanh trà trong tay, không tài nào ăn được. Một lúc sau, mạ từ nhà sau ra và bước vào phòng, ngồi xuống ghế và cười, bảo tôi ăn đi chứ. Và mạ nói những chuyện đâu đâu, toàn chuyện trên trời dưới đất, hoàn toàn không ăn nhập gì đến nội dung cuộc "ra mắt" mà tôi đang sẵn sàng đáp ứng. Mạ nói năng vui vẻ, cởi mở, nhưng vẫn là những chuyện không đâu. Cuối cùng mạ nói: "Thôi hai đứa ngồi chơi hí". Và mạ đi.
Với tôi, hồi ấy anh vẫn hay nhắc về mạ mình bằng cách gọi là "bà cụ" như thế, mãi cho đến khi ăn hỏi xong, vào một dịp cúng kỵ anh nhắn tôi đến nhà, mạ bảo tôi lạy bàn thờ và bắt đầu xưng "mạ" với tôi, trong khi tôi vẫn e dè đợi đến ngày cưới mới gọi mạ là mạ, thì anh bắt đầu dùng từ "mạ" khi đề cập với tôi về mạ.
Buổi đầu tiếp kiến thế là diễn ra giản dị hơn tôi hình dung rất nhiều, thậm chí phần nào đã khiến tôi ngỡ ngàng. Mạ đi rồi, anh kể cho tôi nghe về mạ, về cuộc đời của mạ từ thuở nhỏ đến lúc lấy chồng, sinh con, và thờ chồng nuôi con khi chú anh mất (con cái các gia đình hoàng tộc vẫn gọi bố mình là "chú"), trong lúc tuổi đời của mạ vẫn còn rất trẻ, anh mới lên mười ba và sau anh vẫn còn hai em nhỏ, một gái và một trai. Kể về mạ, anh xoè bàn tay ra đủ năm ngón trước mặt tôi. Tôi hỏi: "Tuổi của mạ anh hả?". Anh cười, lắc đầu: "Không". Ngập ngừng một lúc, anh tiếp: "Bà cụ là vợ thứ năm của ông". Và tôi được kể về đời làm vợ của mạ. Mười lăm tuổi mạ lấy chồng. Khi chú của anh, một nhà thầu khoán giàu có đã bốn vợ, tình cờ trông thấy mạ mang cơm đến cho bố đang là thợ nề trong tốp thợ của ông, đã tỏ ý ưng cô gái, thì do gia cảnh rất nghèo và bà ngoại lại mất sớm, mạ đã đồng ý nghe theo lời ông ngoại để lấy người thầu khoán ấy, hầu có thể lo tương lai cho ba em nhỏ của mình. Ở cái tuổi vẫn còn nửa trẻ con nửa người lớn ấy, cô gái quê xinh xẻo mới lớn bắt đầu tập tành làm vợ và làm dâu, và thấm thía nỗi niềm gian truân cay nghiệt của người phụ nữ nghèo gửi phận nhà chồng. Về sau, trong những dịp tâm sự với tôi, mạ kể là chỉ dì tư (vợ thứ tư của chú) mới thương mạ và chịu khó vẽ vời cho mạ trong bước đầu làm dâu, về những công việc bếp núc, nội trợ... Có lẽ điều bù đắp lớn nhất cho mạ, là tình thương yêu của chú dành cho mạ là nhiều hơn cả. Cũng dễ hiểu thôi, mạ là cô vợ út, trẻ nhất, lại xinh đẹp, ngoan hiền, tuy gốc gác quê mùa nhưng khuôn mặt, dáng dấp, phong thái, cốt cách lại vô cùng quý phái. Cho đến cuối đời, dù tuổi già tàn úa và mái tóc thì đã bạc phơ, mạ vẫn giữ được nét đẹp cao sang quyền quý đó.
Tôi về làm dâu mạ khi lòng đã an tâm hơn, và cảm thấy bắt đầu quyến luyến người phụ nữ mà anh yêu thương nhất đời đó. Điều kiện duy nhất anh đặt ra với tôi khi cùng bàn định chuyện cưới xin và sống chung, là bằng mọi cách, tôi không được để bất cứ chuyện gì không hay xảy ra giữa mạ và tôi. Tôi đồng ý. Điểm lại suốt đời tôi làm dâu mạ, tôi đã thực hiện được điều anh yêu cầu, nhưng không chỉ vì anh đã yêu cầu, mà thực sự chính tôi cũng thật lòng thương yêu mạ và mạ cũng đã thương yêu tôi. Tôi nghĩ đến mạ, chăm sóc mạ và ngược lại, mạ cũng quan tâm đến tôi và chăm chút cho tôi. Ngoài anh và hai đứa con của tôi là cái chung dễ nhận thấy giữa mạ và tôi (vừa là máu mủ của mạ vừa là phần đời rất lớn của tôi), dường như vẫn còn một cái gì đó trong vô thức sâu thẳm khiến mạ với tôi đặc biệt thương mến và quyến luyến lẫn nhau. Tôi biết cho đến ngày nay, người phụ nữ anh yêu thương nhất trên đời không phải là tôi, mà vẫn luôn là mạ, nhưng tôi thật tình cảm động và quý trọng tình cảm thiêng liêng đó mà riêng tôi chỉ có thể cảm nhận và chia sẻ một phần ít ỏi, ít nhưng đủ để trở thành hiếm hoi trên đời, giữa hai người phụ nữ đang là mẹ chồng và nàng dâu.
Lần duy nhất tôi khiến mạ phiền lòng, là thời đứa con thứ nhất của chúng tôi đang đi nhà trẻ, và đứa thứ hai thì vẫn còn bú mớm. Buổi sáng, tôi phải cho đứa lớn vệ sinh, ăn sáng, thay đồ và sẵn sàng để anh chở đi học. Sáng hôm đó tôi loay hoay mãi vẫn không tìm ra áo quần để thay cho con. Mạ nói: "Áo quần thì phải lo từ tối qua, sáng ra mới tìm thì làm chi kịp". Tôi trả lời: "Không phải là con không biết, nhưng tối qua con thức khuya làm việc, mệt quá không thể ráng thêm được nữa nên mới không soạn sẵn áo quần". Giọng tôi vẫn từ tốn, và mạ không nói gì. Nhưng đến trưa, anh gọi tôi: "Hình như mạ giận em, em tìm cách xin lỗi mạ đi". Tôi giải thích với anh về những gì đã xảy ra, nhưng vẫn đến xin lỗi mạ. Mạ vui ngay, và sau đó không bao giờ mạ còn nhắc lại câu chuyện đó nữa. Nhưng suốt đời, tôi không quên vết tì nhỏ đã gợn đục một phần trong tình cảm giữa mạ và tôi đó.
Tôi vẫn thường nói đùa với mạ rằng hầu như tôi chưa bao giờ phải làm dâu mạ, chỉ có mạ là hết đợt này đến đợt khác làm dâu tôi. Bởi cứ mỗi một dịp tôi vắng nhà đi công tác xa, hoặc đi thực tập hay học tập ở nước ngoài, mạ vẫn thường thu xếp đến ở với anh và các con tôi để chăm chút miếng ăn giấc ngủ cho con trai và cháu nội của mạ. Thậm chí nhiều lúc tôi vẫn ở nhà, mà mạ cũng đến ở lại, và cứ tranh việc để làm, từ quét tước sân cươi, lấy mạng nhện trên tường, cơm nước, rửa dọn... đến chợ búa, đút cơm cho cháu nội. Lần cuối đi học một năm ở nước ngoài, về đến nhà nhìn thấy những mạng nhện giăng ngang dọc trên tường, tôi hiểu mạ chồng tôi đã thực sự già yếu.
Mạ nấu ăn khéo và ngon, và tôi học được của mạ biết bao nhiêu là kinh nghiệm quý. Thuở còn con gái, tôi thường được mạ tôi bày cho cách chuẩn bị và nấu một số món ăn, không cao lương mỹ vị gì nhưng cũng có thể xoay xở để thay đổi thực đơn hàng ngày. Nhớ ngày xưa ba tôi vẫn thường doạ chị em chúng tôi: "Đàn ông có trăm người thì cả trăm người đều thích ăn ngon, mình mà không biết nấu ăn thì chồng mình sớm muộn cũng theo người khác... biết nấu ăn ngon hơn". Tôi lấy chồng với vốn liếng có chừng mực đó về việc bếp núc. Mạ chồng tôi đã truyền thêm vốn cho tôi, và điều đáng nói không phải là mạ đã dạy cho tôi cái gì, mà là cái cách mạ truyền dạy cho tôi. Khi ăn cái gì tôi nấu mà thấy ngon, mạ khen rối rít. Ngược lại, ăn mà cảm thấy không vừa miệng, mạ hay giả lơ, đợi khi thuận tiện thì thủ thỉ bày cho tôi thủ thuật để món ăn được ngon hơn. Không như tinh thần câu tục ngữ xưa, "Trước làm nàng dâu, sau mới làm mẹ chồng", một khi đã là mẹ chồng thì có quyền đổ lên đầu con dâu những gì mình đã phải hứng chịu xưa kia..., với mạ chồng tôi, dẫu một thời đắng cay cảnh mẹ chồng chì chiết, trong ứng xử với tôi mạ hết sức tránh cho tôi mọi mặc cảm là con dâu trước mẹ chồng, và tôi vô cùng biết ơn mạ về lòng cảm thông và sự tinh tế vô chừng đó. Mạ vẫn thường xuýt xoa kể về những thứ tôi chuẩn bị tuy giản đơn nhưng lại hợp ý mạ: soong cá nục hay cá bống thệ kho khô "đậm đà thấm tháp", hủ dưa giá "mụ làm răng mà để mấy ăn cũng thấy ngon". Tôi hiểu không phải là tôi thực sự khéo, mà chẳng qua đó chỉ là cách thể hiện tình thương yêu của mạ.
Ngày tôi lên bàn mổ lần thứ hai để sinh con (đứa đầu là con gái, cũng đã mổ khi sinh), tôi nói tôi chỉ e ngại rằng đứa con thứ hai của tôi cũng chỉ là con gái, vì sẽ không mang đến cho mạ đứa cháu đích tôn mà mạ mong chờ. Mạ khua tay: "Thôi thôi mụ ơi, tui chỉ mong mẹ tròn con vuông, chơ con gái thì con gái, đẻ con gái nữa thì Trưng Trắc Trưng Nhị, có chị có em". Tôi vào phòng mổ, ứa nước mắt. May thay, tôi đã sinh cho mạ đứa cháu đích tôn mà càng về sau mạ càng yêu và cưng như trứng. Từ hồi thằng bé còn nhỏ, mạ vẫn thường lén lút cho quà, trong khi tôi xót khi thấy mạ vẫn thiếu thốn lại còn nhiều mối lo toan nên thường ngăn cản. Một hôm con trai tôi (lúc đó khoảng sáu hay tám tuổi gì đó) với vẻ mặt nghiêm trang dặn tôi: "Khi mô mẹ có cháu đích tôn, thì mẹ không được lén con mà cho quà hắn và cho tiền hắn nghe chưa. Con la hắn là mẹ không được bênh hắn nghe chưa". Tôi phì cười, hiểu ra những bí mật đã và đang xảy ra giữa hai bà cháu...
Mạ chồng tôi không phải là người có học. Một chữ bẻ đôi mạ cũng không biết. Nhưng những lời mạ nói ra thường hay trích dẫn những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ... mà quả thật tôi chẳng hiểu mạ học ở đâu ra và chính tôi cũng chưa biết. Cúng kiếng thì mạ dặn "rộng làm kép, hẹp làm đơn", là con gái thì mồm miệng phải "bò ho bay không lọt", và nhớ "miếng trầu làm dâu nhà người", muốn làm ăn nên nỗi thì cần "có đào có kép". Nhắc đến những vất vả nhọc nhằn của mạ tôi khi nuôi nấng chăm chút cho con gái tôi, tức cháu nội đầu lòng của mạ, thì "cháu bà nội mà tội bà ngoại"...
Mạ ơi, bài báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của con về văn hoá ứng xử qua tục ngữ ca dao vẫn chưa hoàn thành. Lẽ ra con đã phải làm xong trước khi mạ ra đi, để kịp đề tặng mạ khi mạ vẫn còn ở dương thế. Bởi dù mạ không hề hay biết, mạ chính là ngọn nguồn sâu xa đã khơi mớm cho con về cái thâm thuý trong kho tàng thơ văn truyền khẩu của người xưa đó, trong khi bản thân mạ thì chẳng biết i cũng chẳng biết tờ. Và càng nghiền ngẫm những câu tục ngữ ca dao xưa, con càng hiểu thấu cái may mắn của đời con. Bởi những nghiệt ngã xưa mạ từng gánh chịu thì nay mạ đã cố hết sức tránh cho con. Với mạ, không bao giờ là "Thật thà cũng thể lái trâu - Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng", "Chăn tằm rồi mới ươm tơ - Làm dâu rồi mới được như mẹ chồng", "Mẹ chồng không ai nói tốt nàng dâu, nàng dâu đâu có nói tốt mẹ chồng"...
Mạ vẫn mong được sống thêm ít năm nữa để chúng tôi trả bớt những món nợ dồn dập khi xây nhà mới, rồi mới an tâm ra đi vì mạ tin khi đó chúng tôi mới có thể lo toan chuyện hậu sự cho mạ. Nhưng dù mạ đã cố sức, căn bệnh nghiệt ngã đã quật mạ quỵ hẳn và mạ đã vĩnh viễn rời xa chúng tôi.
Mạ ơi, cũng như mạ của con, mạ đã hết lòng và sống với con không hề suy tính nề hà, chẳng hề "khác máu tanh lòng". Cùng với những người con mà mạ đã rứt ruột đẻ ra, con khóc mạ nhưng không giống như xưa kia "Thương chồng phải khóc mụ gia - Ngẫm tôi với mụ có bà con chi" đâu mạ ạ. Nước mắt nó cứ tự nhiên mà trào ra thôi. Và mạ biết không, cái ảnh thờ của mạ, con đã nhờ phóng to gần bằng ảnh chú và chọn khung ảnh cũng gần giống như của chú. Đoạn tang mạ rồi chúng con sẽ rước mạ lên bàn thờ gia tiên và đặt mạ ở bên cạnh chú. Mạ đừng lo ngại sẽ phải như bà nội ngày xưa mạ nhé. Nếu khi bà nội qua đời, không có ảnh để thờ và ngoài mạ ra không còn ai hương khói cúng quẩy cho bà nội, thì chúng con sẽ tiếp bước mạ lo cúng kỵ bà nội và với mạ chúng con sẽ suốt đời hương khói phụng thờ và sẽ không quên ngày kỵ giỗ.
Mạ chồng tôi đã chọn đúng lúc chúng tôi đang quỳ trước bàn thờ Phật mới thỉnh về nhà và thành tâm cầu an cho mạ, để trút hơi thở cuối cùng ở bệnh viện. Không còn nữa một kiếp gian truân nhọc nhằn, cũng chẳng còn những đớn đau vật vã trên giường bệnh. Vĩnh viễn mạ đã được giải thoát khỏi những hệ luỵ dương trần mà mạ phải nặng nợ cưu mang có thể từ rất nhiều kiếp trước. Khuôn mặt mạ vẫn dịu hiền nhân hậu, dù tấm thân héo khô đã bắt đầu lạnh và cứng lúc chúng tôi tắm rửa, thay quần áo cho mạ để chuẩn bị đưa tiễn mạ đi. Một chuyến đi không có ngày về.
Giờ này mạ đã yên nghỉ trên đồi cạnh chú, dưới bóng mát của một cây dương liễu. Một nơi an nghỉ đẹp và êm đềm. Mạ an tâm mạ nhé. Đã có lời kinh Phật dẫn dìu từng bước mạ đi. Nam mô tiếp dẫn đạo sư A di đà Phật...
Cõi vĩnh hằng, mạ ơi, con tin từ nay mạ có thể ngậm cười và vô cùng thanh thản.
8 / 2005
mardi 22 juillet 2025
Institut de la Providence à Hué (G. Lefas - SMEP)
L'éducation parisienne du jeune Empereur jointe aux traditions chrétiennes de son illustre épouse, S.M. Nam Phuong, issue de l'élite de la société saigonnaise, parurent, aux yeux de Mgr Allys, le Vicaire apostolique du lien des circonstances encourageantes, pour la fondation d'un établissement secondaire catholique.
Ce projet répondait, en effet, au désir commun du milieu mandarinal et de celui des fonctionnaires et colons français, de trouver sur place l'instruction et l'éducation de haut niveau, capables d'assurer à leur progéniture l'accès à l'éventail des fonctions dont le pays avait besoin, pour s'assurer une autonomie convenable.
C'est ainsi qu'avec la discrète approbation de l'Administration française, fut mis au point le projet de la fondation de l'Institut de la Providence, établissement d'enseignement secondaire, du type classique, calqué sur ceux de la métropole.
Les grands ordres religieux et les congrégations enseignantes ayant décliné l'offre de présider à cette fondation, Mgr de Guebriant, alors Supérieur de la Société des Missions Étrangères de Paris, accepta de relever le défi de sa réalisation, lors de sa visite en Indochine, en 1931.
Dès lors, le successeur de Mgr Allys, Mgr Chabanon, allait pouvoir procéder à la bénédiction solennelle, en ouvrant, le 15 Septembre 1933, une classe de 6ème, à 2 sections, complétée par les 2 classes préparatoires de 7ème et de 8ème. Le tout comportait 132 élèves, sur les 190 qui s'étaient présentés. Dans ce nombre, on comptait 17 Français pour 125 Vietnamiens, parmi lesquels se trouvaient 28 catholiques, à côté des 103 confucéens, adeptes en faille du Culte des Ancêtres.
L'emplacement choisi était spacieux et aéré, se situant en bordure de l'ancienne avenue Khai Dinh, non loin de l'évêché et presque en face du couvent des Rédemptoristes canadiens.
De la terrasse qui surplombait les deux étages de cet immeuble central, de 73 mètres de long, on apercevait, au Sud, la colline du "Ngu Binh", dite "Écran du Roi", dressée comme un paravent tutélaire pour protéger "L'esplanade des Sacrifices", le Nam Giao, où S.M. l'Empereur accomplissait périodiquement les rites traditionnels de ses attributs de "Fils du Ciel".
De 1933 à 1939, quatre autres bâtiments disposés à l'équerre, allaient successivement compléter cet ensemble harmonieux, construit sur les plans de l'architecte-entrepreneur Dinh Doan Sac - conseillé par le R.P. Douchet, sauf pour la chapelle, élégante et moderne, dont les plans avaient été gratuitement fournis par un architecte ami de France André Duthoit. Le sol de cet emplacement rizicole étant marécageux, c'est sur une forêt de bambous imputrescibles que reposent les constructions selon une technique originale qui allaient faire ses preuves de solidité, lors des futurs bombardements de la capitale impériale. L'approbation stimulante des milieux officiels s'était largement manifestée, à la cérémonie de l'inauguration, par la présence des personnalités, telles S.E. Tôn Thất Hân, ancien Régent de la Cour, et du côté français, le Résident Supérieur Lavigne, assisté du chef de la Sureté, Sogny et, pour les ecclésiastiques, du R.P.

Divers professeurs "laïcs" complétaient l'équipe, tels que MM. Trần Điền (futur Sénateur), Tôn Thất Đàm, Tuyên, sans oublier Mr. Tạ Quang Bửu (futur Ministre de la jeunesse à Hanoi).
L'enseignement, aligné sur celui de la métropole, comprenait dès la 6ème l'étude du latin (dans l'une des 2 sections), de même qu'il allait compléter, en 4ème, celle du Grec (facultatif). Ces disciplines furent enseignées avec maestria par le R.P. Massiot, aidé de quelques autres. Bien sûr, l'accent était mis sur l'étude approfondie de la langue française, dans sa syntaxe et sa littérature.
Ainsi, ce programme se trouvait - sans négliger les mathématiques - plutôt axé sur les "humanités", retenues comme le gage d'une formation solide et universelle. De fait, cela allait permettre à bon nombre d'élèves d'entreprendre les carrières les plus variées : juridique, universitaire, médicale, militaire, voire sacerdotale.
Plus tard, avec l'évolution des circonstances et des mentalités, l'accent sera davantage mis sur les sciences mathématique et physique, sous la direction savante du R.P. Duval, entré à l'Institut de la Providence, après son expulsion de la Chine communiste, ainsi qu'avec la compétence du R.P. Oxarango, cumulant une licence ès Lettres, avec talents de physicien et de cinéaste, fort appréciés de ses élèves. Beaucoup de ceux-ci en témoigneront, une fois arrivés en France et après s'être munis, sans trop de peine, des diplômes des grandes écoles : Polytechnique, Centrale, École Supérieure d’Électricité, ou H.E.C. etc...
Précisons que l'atmosphère de l'Institut de la Providence était faite du respect de l'ordre, tempéré par une sorte de familiarité dans les rapports maître - élèves et entre camarades.
Comment en donner une meilleure idée qu'en cédant la plume à celui des anciens élèves que sa notoriété avait déjà désigné pour présider en 1958 le 25ème anniversaire de la fondation de l'Institut de la Providence, Mr Tôn Thất Thiện ?
Après avoir rappelé ses débuts à l'École Paul Bert, il brosse, avec humour, un tableau de ses années "de la Providence".
(...) Comme mes années de scout, mes années d'élève à la Providence ont, dans une très grande mesure, contribué à me rendre apte à avancer plus tard, sans difficulté et d'un pas ferme dans les études que j'allais entreprendre et sur le chemin de la vie.
L'Institut de la Providence, créé en 1933, était une école "Tây" (enseignement français et appliquant le programme d'enseignement préparant au baccalauréat métropolitain). Les fondateurs de l'établissement eurent une vision très large; c'est pourquoi l'influence que l'école allait exercer plus tard fut très grande. L'école relevait de l'Église catholique et était une école française ; elle avait donc, forcément, pour arrière-pensée de promouvoir le catholicisme et la France. Mais, en l'occurrence, on fut très discret et très subtil, ne se livrant à aucun prosélytisme de nature à gêner quiconque. Pendant toute la durée de mes études à la Providence, de l'année scolaire 1936-1937 à l'année scolaire 1943-1944, je n'ai jamais subi, ni directement, ni indirectement, la moindre pression tendant à m'amener à recevoir le baptême ou à "suivre les Tây".
C'était un grand établissement, doté d'un corps enseignement digne de respect. C'était en outre une école secondaire privée, influente, du Centre Viet Nam. De ce fait, l'école attirait des élèves non seulement du Centre Viet Nam tout entier, mais aussi du Sud, en particulier parmi les enfants des familles catholiques.
Bien que l'école accueillit en même temps des élèves français et des élèves vietnamiens, je n'ai jamais ressenti la moindre discrimination par rapport aux élèves français. Les professeurs et les pères faisaient preuve d'une parfaite équité à l'égard des uns et des autres.
Peut être avaient-ils plutôt tendance à prendre la défense des élèves vietnamiens. Aussi, lorsqu'une bataille opposait des élèves vietnamiens, souvent les pères administraient une gifle aux Français d'abord, avant de l'administrer aux Vietnamiens.
(...) La seconde remarque que je tenais à faire à propos de la Providence, c'est que j'y ai reçu une instruction très sérieuse, en particulier en matière de langues vivantes - français et anglais. Les enseignants, français comme vietnamiens, avaient une grande compétence et enseignaient avec conscience et attention, tout en étant sévères, exigeant de leurs élèves un grand effort. (...) (1)
On le voit, l'Institut de la Providence s'était proposé avant tout, de mettre un corps professoral, issu, en grande partie, du clergé missionnaire, au service de l'élite de la capitale impériale, afin de donner à ses enfants une formation intellectuelle et morale, capable de les préparer aux responsabilités qui les attendaient, à leur majorité.
Bien entendu, cet établissement a dû s'adapter aux évènements qui ont pesé sur les destinées du Viêt Nam, entre les années 1933 et 1975. Au cours de ces quelques quarante années cruciales, on peut distinguer plusieurs étapes historiques.
I- 1933-1945: Période de fondation
II- 1946-1963: Période d'épanouissement
Parmi les évènements qui ont ébranlé le cours des choses, au Viêt Nam, le "Coup de Force Japonais" du 9 Mars 1945 compte au premier chef : d'abord en guise de contre-coup de la défaite française en 1940, en face de l'agresseur nazi. Quelles qu'aient été les visées du Japon, une cassure s'était produite, dans le dispositif de l'Administration française, en Indochine (rallié bon gré, à la cause du Maréchal Pétain). Tout sera remis en question, à la suite de la capitulation de l'Allemagne Hitlérienne; mais rien ne sera plus comme avant, dans l'ancienne Indochine française. Sans entrer dans les détails du retour de la présence française, avec le Général Leclerc et, plus tard, le Maréchal de Lattre de Tassigny, tout finira par craquer, au désastre de Diên Biên Phu (1954)...
Cependant, contre toute attente, L'Institut de la Providence traversait ces orages sans sombrer, en dépit des blessures périodiques de la guerre.
L'établissement surnageait, parce qu'il s'adaptait souplement à l'évolution des mentalités et à la marche irrésistible vers une indépendance, trop longtemps marchandée à ce pays, mûr pour la prise en mains de ses destinées.
En particulier, l'accession au pouvoir du Président Ngô Dinh Diêm (1958-63) permet à un certain nombre d'anciens élèves de l'Institut de la Providence, connus de Mgr Ngô Đình Thục, d'être appelés à des fonctions gouvernementales qu'ils exerceront, avec compétence et probité.
Au cours de cette période, une Université catholique fut fondée à Dalat et fut dirigée par le R.P. Nguyễn văn Lập, un ancien professeur et aumonier de l'Institut de la Providence. Tandis que, à Hué, était fondée une Université d'État, dirigée par le R.P. Cao Văn Luận. Celui-ci fit appel à des professeurs de l'Institut de la Providence, comme les Pères Oxarango et Lefas pour y assurer des cours, dans les Facultés des Lettres et de Pédagogie. En outre, la fonction de Doyen de la Faculté des Lettres fut confiée à un ancien élève de la Providence, M. Lê Thanh Minh Châu dont les diplômes avaient été acquis aux États-Unis.
III- 1963-1975...: "Vogue la Galère !"
La bien triste disparition du Président Ngô Đình Diệm et de ses frères inaugura une période de confusion au Sud Viêt Nam dont le Nord Viêt Nam allait tirer parti, pour préparer la "Réunification" dont il rêvait. La réalisation de ces projets de mainmise sur le Sud fut entachée d'évènements parfois tragiques comme celui du fameux Têt Mâu Thân (Fév. 1968) qui donna lieu, à Hué, à une hécatombe de quelque 3000 victimes civiles dont - hélas - plusieurs jeunes élèves de la Providence.
Néanmoins à cette époque, un bon nombre d'anciens élèves, bacheliers de l'Institut de la Providence, entraient à l'Université de Hué, pour y préparer une licence ou un diplôme de Pédagogie, leur ouvrant la carrière du professorat, Ainsi, notre établissement remplissait une partie des ambitions de ses Fondateurs, traduites par ce titre d'Institut.
Dès lors, une partie des actuels professeurs de Lettres et de Langues vivantes de la Province de Thua Thiên ont été formés, depuis leurs années de Secondaire jusqu'à l'Université, par leurs professeurs de l'Institut de la Providence.
IV- 1975...: Justification finale du titre d'Institut
De surcroit, on note avec intérêt qu'un bon groupe de professeurs de Langues vivantes,

Ils ont ainsi formé une petite association (le Cenlet), discrètement encouragée par les autorités officielles, comme le montre l'envoi de plusieurs d'entre eux, en France, pour y suivre des stages (de 9 mois ou davantage) en vue de leur perfectionnement professionnel.
Un manuel d'enseignement du français aux Vietnamiens est prévu en 12 tomes et intitulé "Tiếng Pháp" édité par Hatier - Didier (et prochainement diffusé par une maison d'édition au Viêt Nam). Il a bénéficié du concours de plusieurs jeunes professeurs vietnamiens, parmi lesquels se trouve Mme Pham Thi Anh Nga qui enseigne à la Faculté de Pédagogie de l'Université de Huê.
Comment ne pas voir, dans ces faits encourageants, la justification "providentielle" du titre, donné dès le début, à l'Institut de la Providence par le fin lettré qu'était le R.P. Nguyên van Thích: "Thiên Huu Hoc Duong"(3).
(1) Tây: littéralement "Occidental", terme à connotation péjorative utilisé à la place du terme "français".
Jeanne d'Arc 1960-1973
classes de 7e et de 8e
classe de 4e
ENS de Hué 1973-1977

4e année
Université de Rouen 1996-1997

salle de documentation DESCILAC - le 9 janvier 1997

dernier cours de méthodologie 1997
Université de Rouen 1999-2000

soutenance de thèse

avec Anh Hai

... et les copains copines
ENS de Hué 2003-2004

Université d'Hélouan - Égypte 2004

Bangkok 2006

ESLE de Hué 2006-2007

Siem Reap 2007

anciens Rouennais

chez Minh 2008

Pagode Từ Lâm (Hué) 2008

Vientiane 2008

Avenue Lane Xang

Université Nationale du Laos
Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) 2008



đăng quang 2008

kỷ sửu 2009

đền huyền trân

trúc lâm thiền viện
chez phan thuận an 2009


dans le soleil et dans le vent
thả thơ 2009

trên sông Hương

tiến vào chung kết
Fai Fo 2009

canh dần 2010
chùa Từ Lâm
phật tử Quảng Viên
chùa Tịnh Giác
Huý nhật lần 7 của em Minh (5.10.2011 - 9.9 ÂL)
Nam-Nga Tuấn-Hà Phượng Chôm Bư Nin Hề + Tùng Tú