TỌA ĐÀM KHOA HỌC “CÔNG LAO VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP QUAN TRỌNG
VỀ MẶT LỊCH SỬ CỦA HOÀNG ĐẾ GIA LONG”, Huế 31.5.2022
ChÚa Nguyễn Ánh - HoÀng đế Gia Long dưới những
gÓc nhÌN
Phạm thị Anh Nga
1. Những góc nhìn khác
- Tại sao lại dưới những góc nhìn
khác
110 năm trước, vào năm 1912, mở đầu cho một bài tổng hợp
dài hơn 80 trang có nhan đề “Những tài liệu liên quan đến thời Gia Long”
(Documents relatifs à l'époque de Gia-long) in trong Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ (Bulletin de l'École française
d'Extrême-Orient, B.E.F.E.O.) số 12,
linh mục Léopold Cadière đã nhắn nhủ: “Lịch sử về Gia Long vẫn chưa được viết.
Tuy nhiên đó là một nhiệm vụ cần phải thực thi. Với người nào muốn thử làm nhiệm
vụ đó, tôi trao tặng những tài liệu này, tất cả đều chưa được xuất bản”. Ông giải
thích: “Các biên niên kỷ thuộc địa mà Viện Viễn Đông Bác cổ đảm nhận công việc
tập hợp và sử dụng là một nguồn thông tin rất quý. (…) Nhưng phải thừa nhận rằng
các biên niên kỷ đó không tránh khỏi những sai sót. (…) May mắn là chúng ta có
những nguồn thông tin khác.”
Cũng trong tập san B.E.F.E.O., số 20 năm 1920, trong bài
viết về cuốn sách của Charles B. Maybon “Lịch sử hiện đại nước An Nam
(1592-1820)” (Histoire moderne du pays d'Annam (1592-1820)), một mặt, Léonard Aurousseau ghi nhận những điểm son,
chính xác, súc tích và mới mẻ ở các nội dung bàn về mối tương quan giữa người
An Nam và người châu Âu, cũng như về lịch sử xứ An Nam từ thời Gia Long trở về
sau. Mặt khác, L. Aurousseau nêu một số nhược điểm của Maybon, cụ thể như sau:
“Ông Maybon đã không biết hoặc cố tình bỏ qua một khối lượng lớn các tư liệu của
người An Nam và cũng như tất cả những ấn bản Trung Hoa về xứ An Nam. Ông Maybon
không trực tiếp sử dụng bất kỳ một cuốn sách nào của Trung Hoa; ông chỉ trích dẫn
nguồn từ những nghiên cứu của ba nhà Trung Hoa học người Pháp là Gaubil,
Devéria và J. Beauvais. (…) Những nghiên cứu về lịch sử của Linh mục Cadière là
vô cùng quan trọng đối với toàn bộ giai đoạn được ông Maybon nghiên cứu, và
không ai có thể đem hai thứ đó ra so sánh, bởi rõ ràng những nghiên cứu đó đầy
đủ hơn và chính xác hơn bản tóm tắt đơn giản mà ông Maybon thi thoảng làm và tự
cho là thỏa đáng. Các nghiên cứu đó của Cadière đã được biết đến từ năm 1906,
nghĩa là từ 15 năm trước. Nên chăng ông Maybon gửi đến cho chúng ta cái gì khác
hơn, nếu không phải là cái gì hay hơn? Nói đúng ra, ông Maybon cảm thấy thỏa
lòng, trong nhiều truyện kể của mình, với việc chép lại nguyên văn cuốn sách nhỏ
tuyệt vời về lịch sử xứ An Nam mà ông đã cộng tác với ông Russier để viết và xuất
bản năm 1909, nhưng lại không bổ sung gì cũng chẳng ghi nguồn.”
Từ đó đến nay, không ít nhà biên khảo đã viết và in ấn về
Chúa Nguyễn Ánh - vua Gia Long, về các Chúa Nguyễn và các Vua Nguyễn, từ những
góc nhìn, đánh giá cá nhân hay từ việc tham khảo các nguồn tư liệu khác nhau.
Tiếp thu bài học từ L. Cadière và L. Aurousseau về việc trong nghiên cứu nhất
nhiết phải truy tìm nhiều nguồn tư liệu khác hơn những gì sẵn có, trong bài viết
này, để góp phần bổ sung vào chân dung và công lao của vị chúa Nguyễn cuối cùng
cũng là vị vua đầu tiên mở đầu Triều Nguyễn, tôi cố gắng lục tìm, tra cứu trong
các ấn bản hoặc trên internet, sách hoặc bài báo, tư liệu từ nhiều nguồn, về những
cách nhìn, cách đánh giá Chúa Nguyễn Ánh - Hoàng đế Gia Long, đặc biệt từ những
góc độ bên ngoài, từ Kẻ Khác, từ những
người vốn thuộc một đất nước khác, một lịch sử dân tộc khác, một nền văn hóa
khác.
- Những góc nhìn nào
Truy tìm những tư liệu có đề cập đến Chúa Nguyễn Ánh -
Hoàng đế Gia Long, tôi có cơ duyên tìm ra và đọc được ngay trong nguyên bản tiếng
Pháp các ấn bản hoặc dữ liệu trên internet (sách, bài báo, thư từ…) của những
nhà nghiên cứu Pháp hay những người Pháp từng sống ở xứ An Nam thời bấy giờ,
như Charles B. Maybon, Michel Đức Chaigneau (con), Jean-Baptiste Chaigneau (bố),
Jean-Pierre Duteil, Philippe Le Failler, Léopold Cadière, hay Étienne Vo Duc
Hanh (Strasbourg, Pháp), và cuốn tiểu thuyết đoạt nhiều giải thưởng của Georges
Bataille (“Annam”, 1993). Đáng kể nữa là một bài báo bằng tiếng Pháp của Nguyễn-Ái-Quốc
đăng trên báo L’Humanité của Pháp (năm 1922) cũng như một số tư liệu của
A.A.V.H., B.E.F.E.O..
Ngoài ra, cuốn sách về vua Gia Long của Marcel Gaultier
do Đỗ Hữu Thạnh dịch và bản dịch bài tham luận súc tích của Choi Byung Wook dịp
1000 năm Thăng Long Hà Nội cũng cung cấp cho tôi nhiều thông tin quý. Tôi cũng
tham khảo và tận dụng được những kết quả phân tích, tổng hợp của một số nhà
nghiên cứu xưa và nay về chân dung và những dấu ấn lịch sử của Chúa Nguyễn Ánh
- Hoàng đế Gia Long: các nhà nghiên cứu L. Cadière (thư từ của J.-B. Chaigneau,
Le Labousse, Barisy, Vannier…), Thụy Khuê (góc nhìn của Shihõken Seishi, Le
Labousse, Barrow, Sainte-Croix về vua Gia Long), Nguyễn Quang Trung Tiến (các bản
đồ địa lý xưa của Đức, Italia, Scotland và Hoa Kỳ liên quan đến chủ quyền biển
đảo), Trần Hưng (góc nhìn của MĐ. Chaigneau, Le Labousse, Barrow), và đặc biệt
là bài trao đổi của Đào Hùng trên Xưa & Nay số 409 (về bài báo tiếng Pháp của
Nguyễn-Ái-Quốc).
2. Chúa Nguyễn Ánh - Hoàng đế Gia
Long
2.1. Hình ảnh và chân dung
Trước tiên, Chúa Nguyễn Ánh và về sau là Hoàng đế Gia
Long luôn được người Pháp xưa và nay đề cập đến hay nhắc đến dưới những cách gọi,
ngôn từ biểu thị sự tôn trọng, nể vì và thân thiện từ phía người viết: “Vương”,
“Vua”, “Nhà vua”, “Vua nước Nam”, “Hoàng thượng”, “Ông hoàng”, “Hoàng đế” “Ông
Chủng”…, ngược hẳn với cách gọi vua Quang Trung Nguyễn Huệ trong các văn bản thời
đó (“giặc”, “kẻ nổi loạn”, thậm chí “bạo chúa”, “bạo chúa trẻ tuổi”). Cũng dễ
hiểu bởi trong mọi tình huống vua Trung
Nguyễn Huệ luôn ở phía đối nghịch với người Pháp. Nhưng không chỉ trong cách gọi,
nhắc đến, mà cũng có khi thái độ đánh giá còn rõ ràng hơn: “sự chuyên chế của
những kẻ nổi loạn” (tyrannie des rebelles) khi đề cập đến việc Tây Sơn tàn sát dân lành, và “ông
vua Gia Long tốt của chúng ta” (notre bon roi Gia Long).
Chân dung của Chúa Nguyễn Ánh - Hoàng đế Gia Long được một
số tác giả mô tả khá chi tiết, cả về hình hài dáng dấp lẫn tính tình và phong
cách làm việc:
“Vua Gia Long cao trên trung
bình, thân thể cường tráng, tướng đạo mạo đáng kính tương xứng với tầm vóc, nét
mặt đầy trang nghiêm và có sắc diện, chứng tỏ một tâm hồn cao đẹp, dáng điệu rất
sang trọng và tính tình rất hòa nhã, nhất là trong lúc trò chuyện thân mật;
nhưng bản tính náo động tự nhiên cũng làm ông dễ chuyển từ sự điềm đạm tử tế
sang sự giận dữ thái quá, khi mệnh lệnh không được thi hành đúng mức. Da trắng,
mắt sáng, chòm râu hoàn toàn bạc và dày hơn râu của những người đàn ông khác
trong xứ. Mỗi bên má của ông có một hột cơm đen, râu bọc chung quanh, làm thành
một chòm râu nhỏ mỗi bên, cạnh chòm râu lớn ở chính giữa, nhưng không hoàn toàn
pha trộn vào nhau. Gia Long là ngươi tài trí, có tư tưởng lón. Trải nghiệm gian
khổ, ông biết cách đánh giá đúng mức người và vật và hiểu rõ guồng máy nhà nước
hơn tất cả các Thượng thư trong triều, thường bị ông bắt lỗi. Ngoài những lúc
bàn luận nghiêm chỉnh, ông là người vui tính nhất và dễ thương nhất trong triều
(…).” (Michel Đức Chaigneau)
“Vua trạc 40 tuổi.
(…) mặc áo gấm đen thêu rua với quần gấm đen và mang đai lưng. (…) Hoàng thượng
đội khăn lụa quấn năm vòng, đầu chỉ để hở búi tóc cài lược vàng.” (Shihõken
Seishi)
Chân dung, tài trí và cách làm việc của vua Gia Long dưới
góc nhìn của Le Labousse được Thụy Khuê tổng hợp như sau: Linh lợi, sâu sắc, thẳng
thắn, nhìn thoáng qua là nắm bắt được trọng tâm của những sự thể phức tạp nhất.
Có trí nhớ hơn người, ghi nhớ tất cả, dễ dàng thiên bẩm bắt chước được tất cả.
Những công binh xưởng, và những bến tầu chiến của Nguyễn Vương làm cho người
ngoại quốc thán phục. Thuyền tầu đếm không xuể. Những chiến hạm lớn lao, đủ loại
hình thái, kiên cố. Tất cả đều là sản phẩm của ông hoàng này (…) Ông cực kỳ
siêng năng. Ban đêm ngủ ít, đọc nhiều. Có tính hiếu kỳ và thích học hỏi. Trong
cung có nhiều sách về kiến trúc, thành đài. Ông thường giở từng trang để xem những
đồ thị và cố gắng bắt chước, khỏi cần đọc những giải thích bằng chữ Pháp vì ông
không đọc được.
Theo John Barrow, đó là một “(…) con người phi thường, một
trong số ít người sinh ra với tài năng bẩm sinh để thống trị thế giới”, “…câu
chuyện về ông hoàng này, mà tôi đã phác họa sơ lược nêu lên một tấm gương sáng
và một bài học bổ ích cho những ai có thể rơi vào những hoàn cảnh rủi ro tương
tự, nó chỉ ra rằng nếu biết kết hợp tài năng, nghị lực và lòng dũng cảm theo một
hướng chỉ đạo đúng đắn, người ta có thể làm được nhiều việc lớn lao đến như thế
nào.”
“Nguyễn Phúc Ánh (1762 - 1820, sau này có hiệu là Gia
Long) là một chiến binh dày dạn kinh nghiệm (một xạ thủ cừ khôi) người đã lăn lộn
trên rất nhiều chiến trường từ thuở thiếu thời.” (Choi Byung Wook)
“Vị vua trước đây là người thẳng tính, và người ta có thể
tin vào những gì ông nói.” (Jean-Baptiste Chaigneau)
“Một số tác giả đã trình bày triều đại Gia Long như một
giai đoạn trật tự và cần lao. Chính vì họ đã rút ra những định kiến ấy trong việc
đọc biên niên sử được viết - có thể nói như thế - theo lệnh của triều đình Huế.
Những tài liệu được công bố gần đây của cha [Léopold] Cadière, ngược lại, chứng
minh cho chúng ta thấy rằng nhà vua bị ngập lút đầu trong những sự kiện. Có vẻ
như nhà vua đã hao mòn sức lực của mình trong việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự
mà nhà vua đảm đương, sau đó còn phải gắng sức chịu đựng một tình trạng những sự
vụ mà chỉ có thời gian mới mang lại sự lắng dịu thanh thản.” (Marcel Gaultier)
2.2. Công cuộc thống nhất đất nước
Theo Jean-Pierre Duteil, sau khi Giám mục Bá Đa Lộc qua đời,
“cần có hai năm để lấy lại Huế, nơi vị tướng cuối cùng của Tây Sơn vẫn đang chiếm
đóng, và kiểm soát toàn bộ nước Việt Nam. Năm 1802, Nguyễn Ánh tiến vào thành
Hà Nội (…). Chiến thắng này cũng có nghĩa là sự kết thúc của ba mươi năm nội
chiến đã tàn phá toàn bộ Đại-Việt. Tại kinh đô cũ của họ Trịnh và nhà Lê, người
thừa kế các chúa Nguyễn đã tự xưng vua, xưng “hoàng đế”, và chọn niên hiệu cho
mình là Gia Long, có nghĩa là “Khai quốc công thần”.”
Trong tham luận của Choi Kyung Wook tại Hội thảo khoa học
dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, nhà nghiên cứu Hàn quốc này đã nhận định rằng
trong lịch sử Việt Nam, sự thống nhất Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau được tiến
hành trong hai lần. Lần thứ nhất diễn ra vào thế kỷ XIX dưới thời vua Gia Long
- người là hiện thân sự thống nhất miền Nam (Gia Định) và miền Bắc (Thăng
Long). Lần thứ hai là vào thế kỷ XX. “Ông đã từng hiện diện ở 3 trung tâm chính
trị gồm Sài Gòn, Huế và Thăng Long để cai trị đất nước. Ông ở Sài Gòn năm 1788
để chuẩn bị lên ngôi hoàng đế vào năm sau đó, đến Huế vào tháng 5/1801 và tiếp
tục về Thăng Long trước khi ông chọn Huế là nơi trị vì lâu dài.”
“Gia Long vào thành Thăng Long vào ngày 21/6/1802 (âm lịch)
và ông rời Thăng Long vào ngày 27/9 năm đó. Trong suốt 3 tháng giam mình trong
điện Kính Thiên, Gia Long ban hành một loạt chính sách mới để cai trị lãnh thổ
mới Việt Nam.”
“Sự hiện diện của Gia Long ở Thăng Long có ý nghĩa đáng kể
mặc dù thời gian chỉ là 3 tháng. Trong suốt thời gian ông ở đây, ông đã
minh chứng cho các luật quan trọng như việc cải tổ bộ máy hành chính nhà nước,
thiết lập mối quan hệ ngoại giao, hệ thống thuế, quản lý giáo dục, cách thức
đương đầu với quân thù…”
“Khi quân đội của mình tiến ra phía bắc để giành lại
thành Thăng Long từ tay quân Tây Sơn, ông đã ngay lập tức theo sau đoàn bộ binh
lãnh đạo bởi Tả tướng Lê Văn Duyệt, cùng lúc đó là lực lượng hải quân do tướng
Nguyễn Văn Trương chỉ huy. Theo Đại
Nam thực lục, Lê Văn Duyệt chiếm
được thành Thăng Long vào ngày 17/6. Chỉ 4 ngày sau đó, Nguyễn Phúc Ánh đã làm
chủ điện Kính Thiên, nơi ở của các hoàng đế triều Lê.”
Từ điển bách khoa Encyclopaedia
Universalis cũng tổng hợp về công cuộc thống nhất đất nước và tổ chức bộ
máy của vua Gia Long (do Yvan BARBÉ viết) như sau:
“Triều đại của ông sẽ được đánh dấu bằng các công trình
quy mô lớn và các biện pháp quan trọng được thực hiện để khuyến khích nông nghiệp:
xây dựng cầu đường, đào kênh dẫn nước, phát triển các công trình công cộng, duy
tu đê điều. Gia Long sẽ tập trung tối đa đất nước của mình để ngăn chặn mọi cuộc
nổi dậy của các tỉnh; đứng đầu là một phủ tổng (Bắc Thành), cả nước sẽ có mười
ba huyện (trấn); các tỉnh thuộc châu thổ do các quan cựu thần nhà Lê quản lý, đảm
bảo việc kiểm soát thường xuyên các nông dân. Gia Long thiết lập mối quan hệ
tuyệt vời với nước ngoài, tuy nhiên ông cẩn thận không ban cho họ những đặc quyền
về kinh tế và lãnh thổ, để ngăn chặn việc họ có thể chiếm đoạt đế chế của
mình.”
2.3. Chủ quyền biển đảo
Chủ quyền biển đảo của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
thời Gia Long trị vì đã được thể hiện rõ trên các bản đồ địa lý và ấn bản của Dức,
Italia và Scotland, cũng như của Hoa Kỳ. Trong các bài báo đăng trên tạp chí
Phát triển Phát triển Kinh tế - Xã Hội của Đà Nẵng, nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Trung Tiến dẫn ra nhiều chứng cứ xác đáng.
Theo Nguyễn Quang Trung Tiến, vào thời vua Gia Long,
ngoài sự kiện nhà nước Việt Nam đã chính thức chiếm hữu quần đảo Hoàng Sa năm
1816, xác lập cơ sở pháp lý vững chắc về chủ quyền quốc gia trước cộng đồng quốc
tế, và được nhiều nước trên thế giới lần lượt công nhận; thì cũng có khá nhiều ấn
bản quốc tế cùng thời gian đó đề cập và công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam.
“Các ấn bản quốc tế công nhận chủ quyền quần đảo Hoàng Sa
của Việt Nam xuất hiện khá nhiều dưới thời vua Gia Long trị vì đã góp phần chứng
minh rằng: ngay từ trước sự kiện năm 1816, thế giới đã thừa nhận việc tiến hành
tổ chức khai thác các nguồn lợi ở quần đảo Hoàng Sa của người Việt Nam và quá
trình xác lập, thực thi chủ quyền của các thực thể nhà nước ở Việt Nam đối với
quần đảo này, bao gồm cả Trường Sa, đã diễn ra lâu đời, từ thời các chúa Nguyễn
đầu thế kỷ XVII, trải qua triều Tây Sơn rồi đến vương triều Nguyễn.” (Nguyễn
Quang Trung Tiến)
Có thể nêu vài thí dụ:
“Paracels
[Hoàng Sa], một số lượng lớn các đảo và đá nhỏ nằm trên biển China [Biển Trung
Hoa/Biển Đông], và tạo thành một cụm dài gần 400 miles [dặm Anh], ngoài khơi bờ
biển Cochin-china [Đàng Trong]”. (Richard
Brookes, The General Gazetteer - Từ điển địa lý tổng quát)
“Tại vương quốc
này không có các thành phố có tòa thành bao quanh, nhưng có nhiều thị trấn nhỏ
và làng mạc. Huế, hay Whay [Hóa], còn
được gọi là Uzangues [Phú Xuân],
Sin-hoa [Thuận Hóa], và thủ phủ
Tchentchen [Đàng Trong], là một thị
trấn lớn, được xây dựng kiên cố, có cung điện hoàng gia và một số chùa, cách
Touron [Đà Nẵng] khoảng 40 dặm về
phía bắc, gần một con sông lớn [sông
Hương], trước đây đủ độ sâu cho tàu có trọng tải lớn; tuy nhiên, do một trận
ngập lụt kinh hoàng cách đây vài năm, các bờ cát đã được hình thành ở cửa biển,
do đó chỉ các tàu nhỏ có thể vào đó. Thị trấn này, theo tên gọi của người Hoa,
được kết nối với các kênh rạch, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển
hàng hóa và thuận tiện cho cư dân. Vịnh Touron [Đà Nẵng] rộng lớn và an toàn, được đề cập ở trên, nơi ngài
Macartney thả neo vào ngày 26 tháng 5 năm 1793, nằm gần một mỏm đất cao, được
bao bọc bởi hai đỉnh núi cao. Ở đó có một hòn đảo nhỏ. Cửa sông [Hàn] ở cực nam của vịnh. Thị trấn, nằm
sâu trong đất liền cách một mile [dặm Anh],
bao gồm những ngôi nhà thấp, được xây dựng bằng tre và phủ cói hoặc rơm rạ.
Trong các khu vực xung quanh là những vườn cam, chanh, chuối các loại và các thứ
khác. Phía trên thị trấn có một thung lũng màu mỡ và thú vị lạ thường được cấp
nước bởi dòng sông. Rặng núi Kamois [Kẻ Mọi,
chỉ dãy Trường Sơn], kéo dài dọc theo ranh giới phía tây, ngăn cách vương
quốc này với Lào và Cam Bốt; và về phía đông, ở một khoảng cách tương đối từ bờ
biển, ở vĩ độ 15° vĩ độ Bắc, là một chuỗi các đảo nhỏ, hoặc đá và bãi ngầm, được
gọi là Paracels [Quần đảo Hoàng Sa],
kéo dài khoảng 100 leagues [dặm biển]
chạy từ bắc xuống nam, và rộng 15 dặm biển; xa hơn có một nhóm bãi cạn gọi là
Lunettes [Bán Nguyệt, tên cũ do người Bồ
Đào Nha dùng gọi nhóm đảo An Vĩnh, tức Amphitrite group], ở vị trí gần 17°
vĩ độ Bắc”. (James Playfair, A System of Geography, Ancient and Modern - Hệ thống
Địa lý cổ và hiện đại], Edinburgh, Scotland 1813).
2.4. Quan hệ đối nội và đối
ngoại
Etienne Vo Duc Hanh đã nhận xét về chúa Nguyễn Ánh như
sau: “Nguyễn-Phước-Ánh cai quản một mình và làm chủ một vùng lãnh thổ mà ông được
thừa kế từ cha ông mình và người Âu Châu gọi là Nam Kỳ. Bất chấp những thăng trầm
do chiến tranh gây ra, ông vẫn có thể ban tặng cho vùng lãnh thổ đó một bộ máy
quản lý có thứ bậc và tổ chức cho nó được bảo vệ bởi một quân đội có kỷ luật.
Trong suốt cuộc đời lang bạt của mình, ông luôn được xem là người cai trị đất
nước và kẻ thù của ông như là một kẻ soán ngôi.”
Đề cập đến thời gian 18 năm trị vì của vua Gia
Long, Maybon xác định nhà vua là “người đầu tiên trị vì đất nước mà không phải chia sẻ với
ai khác”, rằng ông “sẽ
mang bình yên và sự an toàn cần thiết cho đất nước đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh chết chóc. (…) Ngay từ năm
1779, trong khi cuộc chiến chống Tây Sơn vẫn đang diễn ra sôi động, việc ông
tái chiếm các tỉnh phía Nam đã đi kèm với được những biện pháp đặc thù nhằm đảm
bảo cho sự thịnh vượng trong tương lai. (…) Công việc quản lý đất nước của Gia
Long rất đáng kể: đó là một nhiệm vụ không nhỏ, là tổ chức lại đất nước sau hai
mươi lăm năm liên tục hỗn loạn. (…) Gia-long sắp xếp mọi thứ vào trật tự.”
Về phía mình, dựa trên “Đại Nam
Thực lục”, Choi Byung Wook đã phân tích và đánh giá hai khía cạnh tích cực của
Hoàng đế Gia Long trong chính sách đối nội và đối ngoại: “Một là chính sách hoà
giải đối với những quan lại thời Trịnh và Lê.
Hai là việc thiết lập mối quan hệ ngoại giao với ngoại quốc.”
Cụ thể tôi xin trích dẫn như sau:
“Chính sách hoà giải của ông tập
trung vào những thành viên trong bộ máy chính quyền cai trị trước đây dưới thời
Lê/Trịnh, và vào người nhà Tây Sơn. (…) Các quan lại dưới triều Lê trước đây có
thể được tha nếu họ không nhận lời mời làm quan của quân Tây Sơn mặc dù trong
thực tế những người này chính là người của nhà Trịnh,
những kẻ đã tranh chấp với nhà Nguyễn
và đã đưa quân vào chiếm kinh đô của nhà Nguyễn (1775).”
“Ông ta không có đủ lòng thương
để tha cho những tướng lĩnh hàng đầu trong bộ máy chính quyền Tây Sơn bởi đây
là những người luôn muốn tiêu diệt cả gia đình ông cho đến người cuối cùng. Tuy
nhiên, đối với những binh lính còn lại, ông muốn đưa họ gia nhập đội quân của
mình.” Và “rất nhiều tướng sỹ của triều Lê/Trịnh trước đây và Tây Sơn đã quyết
định phụng sự vương triều mới.”
“Những nhà trí thức nho giáo,
những người được cho là trung quân, nhưng lại góp sức cho quân Tây Sơn cũng
không tránh khỏi sự trừng phạt, mặc dù một vài người có chức quan thuộc hàng
cao nhất trong triều Tây Sơn (…) đã được miễn tội chết để có thể phụng sự vương
triều mới.”
Cũng theo nhận định của Choi
Byung Wook, vua Gia Long đã tổ chức các buổi lễ dành cho các vị thần có liên
quan tới Thăng Long, đến thăm lăng Lê Thái Tổ và tổ chức lễ ở Văn Miếu (được
xây dựng vào triều Lý và được duy trì suốt thời Lê).
“Nhằm kết nối người dân ngoài Bắc, ngài tìm đến
hậu duệ của họ Lê là Lê Duy Hoán và bổ nhiệm ông là Diên Tự Công cho ông 1.016
người hầu cận và 10.000 mẫu đất.” Vua Gia Long cũng cư xử khéo léo, đúng mực và
bao dung đối với họ Trịnh. “Việc hoà giải dàn xếp của vua Gia Long dành
cho cả hậu duệ của những người có công được coi là khai quốc công thần và trung
hưng công thần của triều Lê. 33 khai quốc công thần và 15 trung hưng công thần
được đặt tên khiến cho con cháu họ được tôn vinh bởi những tước hiệu khác nhau.”
Ngoài ra, chính sách hoà giải của
Gia Long còn nhắm đến đối tượng là các
dân tộc thiểu số. “Gia Long là hiện thân của một xã hội đa dân tộc,
vì thế sức mạnh của người dựa vào sự đoàn kết đa tộc người.”
Jean-Baptiste Chaigneau đã chúng kiến cách ứng xử vua Gia
Long với quân bại trận Tây Sơn: “Quân Tây Sơn phải hết sức phân vân; nhiều người
muốn đầu hàng, nhưng họ bị từ chối. Nhà vua cho phép họ sống yên bình tại quê
nhà mà không phải lo lắng về chiến tranh.”
Barisy cũng chứng kiến cảnh ba phạm nhân được dẫn giải đến
trước vua Gia Long. Ông kể lại rằng nhà vua đã nói “Này tướng quân, nhà ngươi
là một người tốt và trẫm tôn trọng nhà ngươi; nhưng sau tất cả, nhà ngươi là kẻ
đã cầm vũ khí chống lại vua của mình, điều này ngăn cản trẫm đối xử với nhà
ngươi theo cách mà trẫm mong muốn. Nhưng trẫm biết làm thế nào để thực thi công
lý đối với sự dũng cảm của nhà ngươi: do đó trẫm muốn làm dịu bớt vận mạng của
nhà ngươi.” Liền sau đó, nhà vua ra lệnh cởi bỏ cho phạm nhân những xiềng xích
nặng nề của mình và chỉ cho ông mang những vòng xiềng rất nhẹ.”
Về chính sách đối ngoại của vua Gia Long, J. Barrow nhận
định: “Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ
quan Pháp giúp ông: đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ
ông đi săn hay dự cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông
tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo thiên
chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước: ông cực kỳ tôn kính đạo
nghĩa gia đình như Khổng Tử dạy trong kinh sách; đứng trước mẹ, khi bà hãy còn
sống, ông tôn kính như đứa bé đứng trước mặt thầy. Ông thông thuộc những tác giả
lớn của Trung Hoa.”
Tương tự, Choi Kyung Wook cũng viết về các mối quan hệ
ngoại giao của vua Gia Long như sau: “Từ khi Gia Long định cư ở điện Kính Thiên
thuộc thành Thăng Long, nhiều sứ giả nước ngoài đã lần lượt đến Thăng Long và
tiếp kiến ông. Đầu tiên là vua Luang Prabang. Vị vua Lào này không phải là vua
chính danh mà đang bị lưu vong ở tỉnh Hưng Hoá23. Tuy nhiên, sự hiện diện của
vua ngoại quốc ở điện Kính Thiên đã góp phần nâng cao uy tín của Gia Long. Tiếp
theo, các nước Cao Miên, Lào và Xiêm cũng gửi các sứ giả đến để trình quốc thư
chúc mừng. (…) Từ đầu thế kỷ XIX, sự quan tâm của Việt Nam đối với Trung Quốc
giảm mạnh.”
Cuối cùng, là một góc nhìn vừa từ bên ngoài (từ trên một
tờ báo Pháp) nhưng lại đồng thời cũng từ bên trong (do người Việt Nam viết)
đáng để chúng ta xem và cùng suy ngẫm. Đó là bài báo “Lời than của bà Trưng Trắc”
(Les lamentations de Trung-Trac) của Nguyễn-Ái-Quốc cách đây đúng 100 năm (năm
1922) trên báo L’Humanité của Pháp. Trong bài báo, có một đoạn nhắc đến công
lao của vua Gia Long nhưng không biết vì lý do gì trong bản dịch tiếng Việt hiện
nay đoạn văn đó đã bị cắt bỏ hoàn toàn. Chính nhà nghiên cứu Đào Hùng, cùng tác
giả Thủy Trường, năm 2012, đã nêu vấn đề này trong một bài báo đăng trên tạp
chí Xưa & Nay số 409 với nhan đề đồng thời cũng là câu hỏi: “Sao lại tự tiện
cắt bỏ một đoạn văn của Nguyễn Ái Quốc?”. Đoạn văn trong nguyên bản tiếng Pháp
của Nguyễn-Ái-Quốc bị cắt bỏ đó được Đào Hùng dịch lại nhu sau: “Với lòng quả cảm
vô song và với đức hạnh trong sáng không tì vết, như vàng ròng lấp lánh sau
ngàn lần thử lửa, ông tổ ngươi, vua Gia Long tôn kính và tài ba bội phần, sau
biết bao thăng trầm và khổ đau vô bờ, đã để lại cho (các) ngươi một đất nước
giàu có, một dân tộc độc lập, một quốc gia được các kẻ mạnh vị nể và kẻ yếu
kính mến, với một tương lai đầy sức sống và triển vọng.”
Phải chăng đoạn văn bị cắt bỏ này của Nguyễn-Ái-Quốc đã tổng
hợp và nêu bật những nét chính về hình ảnh Chúa Nguyễn Ánh - vua Gia Long trong
mắt người nước ngoài như trên chúng ta đã đề cập?
Kết luận
Những góc nhìn từ bên ngoài, từ những người không cùng
dòng tộc, không cùng ngôn ngữ, không cùng lịch sử với chúng ta trên đây chỉ mới
là một số ít trong muôn vàn góc nhìn về những khía cạnh khác mà trong khuôn khổ
một bài viết ngắn khó có thể tập hợp và khai thác đầy đủ. Nhưng dù ít, khi đặt
trong một tổng thể chung chúng cũng phần nào nói lên bên ngoài đã nhìn nhận,
đánh giá như thế nào về chúa Nguyễn Ánh - vua Gia Long và về những công lao của
ông trong dựng nước và bảo vệ nước. Tập hợp tiếng nói của một số chứng nhân và
nhà nghiên cứu nước ngoài góp phần cho phép chúng ta nhìn nhận đất nước mình, lịch
sử của mình, dân tộc của mình một cách đa dạng hơn, toàn diện hơn.
Thời gian qua, nhiều nhà sử học Việt Nam đã sáng suốt nhìn
nhận lại một cách khách quan hơn về các chúa Nguyễn và các vua Nhà Nguyễn, đặc
biệt trong Hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX”. Năm 2020, dịp 200 năm ngày vua Gia Long
băng hà, Sở Văn hóa Thể thao Thừa Thiên-Huế và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô
Huế đã phối hợp với Hội đồng Nguyễn Phúc Tộc Việt Nam tổ chức một lễ kỷ niệm rất
long trọng và ý nghĩa. Đài TRT cũng thực hiện một phim tư liệu phong phú, hay
và quý về Hoàng đế Gia Long.
Nhưng phải chăng sự thức tỉnh đó của nhiều nhà sử học và
những người quan tâm đến sự thật khách quan lịch sử vẫn chưa lan tỏa được rộng
khắp, và một số huyền thoại thiếu căn cứ thực tế và đầy ác ý của một thời bài
phong vẫn còn tác dụng lên suy nghĩ của một bộ phận người Việt Nam chúng ta ?
Câu hỏi mà nhà nghiên cứu Đào Hùng đã đặt ra vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng.
Và trong việc hướng dẫn du lịch, không ít hướng dẫn viên đã qua tập huấn, được
cấp giấy phép hành nghề vẫn vô tư dựa vào các sách đầy chi tiết xuyên tạc được
bán tràn lan khắp các quầy sách, vỉa hè… để giới thiệu với khách nước ngoài và
khách trong nước về một Gia Long “cõng rắn cắn gà nhà”, về một Khải Định “ăn
chơi trác táng và vô sinh”…
Đến bao giờ, môn học Lịch sử trong nhà trường mới cung cấp
đầy đủ cho học sinh Sự thật Lịch sử, giúp cho các thế hệ trẻ có cái nhìn thựt sự
đúng đắn, khách quan, không thiên kiến về những triều đại đã từng tồn tại ở Việt
Nam, về công lao của những tiền nhân đối với đất nước ?
5 / 2022
P.T.A.N.
Tư
liệu khai thác chính
(1)
-
A.A.V.H., “Mission Centenaire – Hué 1914-1918, Fonds iconographique”
-
Aurousseau L., 1920, “Charles B.-Maybon, Histoire moderne du pays d'Annam
(1592-1820) ”, Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient. Tome 20, pp.
73-120
- B.E.F.E.O., 1921, Indochine annamite : la
connaissance du pays jusqu'en 1900. In: Bulletin de l'École française
d'Extrême-Orient, Tome 21, pp. 197-278
-
Bataille Georges, Annam, roman,
Arléa, 1993
-
Cadière Léopold, 1912, “Documents relatifs à l'époque de Gia-long”, Bulletin de
l'Ecole française d'Extrême-Orient. Tome 12, pp. 1-82
-
Chaigneau Michel Duc, 1867, Souvenirs de
Hué, Imprimerie Impériale, Paris
-
Choi Byung Wook, 2021, “Vua Gia Long ở Thăng Long”, Phạm Quốc Thành dịch,Tạp
chí Nghiên Cứu Huế, Tập 9, NXB Thuận Hóa
-
Choi Byung Wook, 2010, “Gia Long ở Thăng Long (từ ngày 21/7 đến 27/9 âm lịch
năm 1802)”, Hội thảo Khoa học quốc tế Kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội, Phát triển bền vững Thủ đô Hà Nội Văn hiến,
anh hùng, vì hòa bình, 10/2010
-
Duteil Jean-Pierre, 2002, “La première implantation française en Indochine
(XVIIe-XIXe siècle)”, Copyright Clio
-
Doumer Paul, 1905, L'Indo-Chine française
(Souvenirs), Vuibert et Nony Éditeurs, 392 p.
-
Etienne Vo Duc Hanh, 19 9, “Le traité de Versailles du 28 novembre 1787 entre
Louis XVI et Nguyên-Phuoc-Anh”, Revue d’histoire moderne et contemporaine, tome
16 N°4, Octobre-décembre 1969. pp. 625-651
- Encyclopaedia Universalis,
2017, “GIA LONG” (Yvan BARBÉ viết) & “Les NGUYEN” (Philippe DEVILLERS viết)
& “VIETNAM” (Philippe DEVILLERS, Pierre-Bernard LAFONT, NGUYÊN TRÂN HUÂN…
viết)
-
Gaultier Marcel, 2020, Vua Gia Long, Đỗ Hữu Thạnh dịch, NXB Thế
Giới
-
Maybon Charles B., Russier Henri, 1911, Notions
d’Histoire d’Annam, Hanoi, IDEO
-
Nguyên-Ai-Quôc, 1922, “Les lamentations de Trung-Trac”, L‘Humanité, 24.6.1922
(2)
-
Đào Hùng, Thủy Trường, 2012, “Sao lại tự tiện cắt bỏ một đoạn văn của Nguyễn Ái
Quốc”, Tạp chí Xưa & Nay, số 409, 8/2012
-
Nguyễn Quang Trung Tiến, 2022, “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua
các ấn bản về địa lý tại Scotland và Italia thời vua Gia Long trị vì”, Tạp chí
Phát triển Kinh tế - Xã Hội, số 149, Đà Nẵng 5.2022
-
Nguyễn Quang Trung Tiến, 2022, “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam qua
các ấn bản về địa lý tại Hoa Kỳ thời vua Gia Long trị vì”, Tạp chí Phát triển
Kinh tế - Xã Hội, số 150, Đà Nẵng 6.2022
-
Thụy Khuê, 2017, Vua Gia Long & người
Pháp, Khảo sát về ảnh hưởng của người Pháp trong giai đoạn triều Nguyễn,
NXB Hồng Đức, 671 trang
- Thụy Khuê, 2019, “Chân dung vua Gia Long”, https://nghiencuulichsu.com/2019/01/08/chan-dung-vua-gia-long/amp/
- Trần Hưng (tổng hợp), 2021, “Người phương Tây thán
phục vua Gia Long: ‘’Con người phi thường’’”, https://trithucvn.net)/van-hoa/nguoi-phuong-tay-than-phuc-vua-gia-long-con-nguoi-phi-thuong.html
Tư liệu tham khảo
-
Fourniau Charles, Trinh Van Thao, Le Failler Philippe et al., Le contact franco-vietnamien, Presses
universitaires de Provence, OpenEdition Books
-
Nguyễn Nhã, “Các Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn xác lập & thực thi chủ quyền của
Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ đầu thế kỷ XVII đến khi thực dân
Pháp xâm lược và đô hộ Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX, NXB Thế Giới, Hà Nội 2008
-
Phan Thuận An, “Từ sự thành lập vương triều Nguyễn đến sự đảo lộn nhận thức về triều đại
này trong giai đoạn vừa qua”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều
Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, NXB Thế Giới,
Hà Nội 2008
-
Nguyễn Thị Phương Chi, “Chính sách của vua Gia Long đối với các cựu thần triều Lê”, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, NXB Thế Giới, Hà Nội
2008
-
Võ Hương An, Từ điển Nhà Nguyễn, Nam
Việt 2012, 756 trang
-
Phan Huy Lê, “Báo cáo đề dẫn”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX, NXB Thế Giới, Hà Nội 2008 / Tạp chí Nghiên Cứu Huế, Tập 7,
NXB Thuận Hóa, 2010
-
Lê Thị An Hòa, “Nghĩ về Quốc hiệu Việt Nam nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của
Hoàng đế Gia Long (1820-2020)”, Tạp chí Văn Hóa Huế, số 41, 2020
-
Nguyễn Xuân Thọ, Bước mở đầu của sự thiết
lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897) (nguyên bản tiếng Pháp,
tác giả tự dịch)
-
Đại Nam Nhất Thống Chí, NXB Thuận Hóa, Huế 2006 (những nội dung liên quan)
-
Đại Nam Thực Lục (những nội dung liên quan)
-
Đại Việt sử ký toàn thư (những nội dung liên quan)
P H Ụ . L Ụ C . 1
P H Ụ . L Ụ C . 2