mardi 27 janvier 2009

De l’efficacité, en amont et en aval














* Choisis le bon moment pour prendre parole et agir:
Il y a des blessures qui ne se guérissent jamais.
P.t.A.Nga

Pour ce qui est de l’étude de l’efficacité liée au temps et au moment, le choix du moment propice pour que l’acte humain soit «efficace» mérite [aussi] d’être retenu. Interagir en amont, là où tout est encore à l’état fluide, souple, encore modifiable sans exiger trop d’effort, d’investigation, est conçu comme efficace car cela peut éventuellement être producteur de fonds d’effet. Par contre, en aval, l’efficacité serait limitée, coûteuse et l’intervenion pourrait même être ravageuse car elle va à l’encontre de la démarche naturelle de l’évolution des choses. Cette conception orientale de l’efficacité rejoint la démarche détournée dans la façon traditionnelle d’agir et de se comporter des Orientaux.

Về việc nghiên cứu tính hiệu quả trong tương quan với thời gian và thời điểm, lựa chọn thời điểm nào là thích hợp để hành vi con người được «hiệu quả» [cũng] là điều đáng được ghi nhận. Chính ở đầu nguồn, vào lúc mọi thứ đều còn trong trạng thái loãng, mềm dẻo, còn có thể thay đổi mà không cần quá nhiều nỗ lực, quá nhiều sự đầu tư thì sự can thiệp được xem là hiệu quả bởi nó có thể tạo nên kết quả từ căn nguyên. Trái lại, ở cuối dòng chảy, tính hiệu quả sẽ hạn chế, phải trả giá đắt và việc can thiệp còn có thể có tính huỷ hoại bởi nó đi ngược lại tiến trình tự nhiên của sự việc. Quan niệm về tính hiệu quả đó của phương Đông phù hợp với quá trình đi đường vòng trong cách thức hành động và ứng xử truyền thống ở người phương Đông.

P.t.A.Nga
Extrait de "François Jullien, une lecture et un auto-questionnement", communication au Colloque international «François Jullien, passeur de pensée et concepteur de rencontres» (2005)
Synergies Monde – Gerflint No 3, 2008, pp. 111-119

samedi 24 janvier 2009

«Đông Hà: phía đông những ngọn núi» (Jean-Claude Guillebaud)



Jean-Claude Guillebaud là một nhà báo, nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm suốt đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên - Trở về Việt Nam” được viết sau chuyến đi Việt Nam của ông từ Nam chí Bắc năm 1992, được giải thưởng Astrolabe–Nhà văn du hành (Astrolabe-Écrivains voyageurs), NXB Points tải bản 2006. Hiện Guillebaud đang công tác tại nhà xuất bản Seuil (Paris).



Thoạt đầu tôi cứ ngỡ là tôi nằm mơ. Tối nay, ai đó đã cố cào mạnh vào cửa phòng tôi. Vẫn còn ngái ngủ, tôi chạy ra mở cửa. Người đàn bà làm công việc dọn dẹp ở khách sạn đứng trước cửa phòng tôi, vẻ hơi mệt mỏi. Một phụ nữ Việt Nam bốn mươi tuổi với những ngón tay đỏ tấy vì công việc giặt giũ. Cô ta xoa xoa hai lòng bàn tay vào nhau và nhìn tôi không nói gì. Lúc đó gần nửa đêm, tôi chẳng hiểu gì cả. Chúng tôi là những khách trọ duy nhất của khách sạn Đông Trường Sơn, cái tên có nghĩa là «Phía đông của những ngọn núi». Có ai đó bị bệnh chăng?

Người phụ nữ nhìn tôi chằm chằm. Cuối cùng cô ta lặp đi lặp lại một từ với giọng nói khàn đục: «Massage? Massage?» Trong lúc thì thầm như thế, cô ta làm một cách vụng về những điệu bộ mà cô cho là lả lơi hay cám dỗ. Tôi đứng nghi ngại một lúc. Hẳn là cô ta nghĩ tôi đang ngầm cân nhắc lời đề nghị của cô bởi cô lặp lại lần nữa những điệu bộ của mình một cách còn mạnh mẽ hơn trước. «Massage good. Massage...» Thực ra, tôi không thấy ngạc nhiên về bản thân hành động này: ngay từ khi ở Sài Gòn, mỗi ngày, chúng tôi đều được chào mời. Nếu cả nước Việt Nam lao ra gặp gỡ người nước ngoài, thì đám phụ nữ - là gái điếm chuyên nghiệp hay không - tất nhiên là những kẻ xông xáo nhất. Kẻ nào không - không khi nào! - nhạy cảm với điều đó thì thật quá giả dối. Nhưng cảnh tượng lần này lại không diễn ra bất kỳ nơi đâu cũng như bất kỳ như thế nào...

Bản thân khách sạn, ngôi nhà xây bằng bê tông được dựng trên một khoảng đất bỏ không này, một bệnh viện được cải tạo thành «khách sạn loại sang», toát ra một vẻ buồn bã mực thước với những cái bể nước lợ bỏ phế và những cô thu ngân uể oải. Thành phố Đông Hà, tâm ngoài của những vết thương chiến tranh, thành phố bấp bênh mọc lên từ những cuộc tàn sát và những cuộc di dân, bản thân nó đã biểu thị một kiểu cường điệu hoá thảm hoạ. Cơn lốc dài đi qua nó trong vòng ba mươi năm - cái «Lịch sử hợp nhất» mà Paul Mus đã đề cập đến - đã để lại nơi đây một ý tưởng về sự tàn phá mà thời gian không thể nào bôi xoá được. Cuối cùng, sự khốn cùng của người đàn bà có đôi má trũng sâu này, mảnh như một sợi chỉ trong bộ áo quần lao động, tất cả khiến cho cảnh tượng trở nên thảm khốc. Bị bứt khỏi giấc ngủ, đầu óc tôi cứ tù mù. Có lẽ tôi phải mỉm cười chăng?

Người phụ nữ vẻ cố nài bước dần vào phòng. Tôi cho cô ta một tờ 10 đô la và lắc đầu. Tôi mỉm cười để cô ta đi cho. Rõ ràng cô ta chẳng còn hiểu gì cả, và chúng tôi cứ đứng trước mặt nhau trong ánh đèn màu vàng của khách sạn Đông Trường Sơn, ở Đông Hà, ngay trung tâm của nước Việt Nam. Sự đợi chờ trở nên phi lý. Bên ngoài, một trận mưa to vì gió mùa vừa oà vỡ. Tiếng nước bắn lên từ những tấm đá lát phía ngoài như những dòng thác vọng vào. Người đàn bà nhìn tờ 10 đô la trên tay và nét mặt cô ta thể hiện nỗi đau buồn vì dẫu sao cô cũng đã bị khinh thường hơn là sự thoả mãn về một món lợi to lớn dễ dàng có được.

Tôi vừa nhẹ nhàng đẩy cô ta ra ngoài vừa nhắc đi nhắc lại: «Thank you... Thank you...» Thật chẳng vinh quang gì. Cho cô ta cũng như cho tôi.

Đã quá nửa đêm. Một sự im lặng dày đặc nhanh chóng rơi xuống khách sạn Đông Trường Sơn, hơi bị quấy nhiễu bởi những âm thanh lào xào của cơn mưa đang xa dần. Tôi đi ngủ trở lại trong căn phòng ẩm ướt có chiếc máy điều hoà đã hỏng từ lâu. Giấc ngủ đã bay biến đi mất. Tôi trăn qua trở lại trên một trong số hai chiếc giường đặt sóng đôi mà những tấm drap đã ướt đẫm mồ hôi. Cuộc ngã giá giả tạo với người phụ nữ trên tầng lầu đã khơi dậy một cảm giác khó chịu mà tôi đang cố gắng kìm nén kể từ khi chúng tôi đến trọ nơi đây. Chuyến trở về Đông Hà này không phải là chuyến trở về mà tôi mong đợi. Từ khi chúng tôi ở trong thành phố giả tạo này, được dồn tụ dần dần ở đoạn giao nhau của hai con đường chiến lược (đường đi Hà Nội và đường đi Savannakhet ở Lào, qua Khe Sanh), những kỷ niệm đã xâm chiếm lấy tôi. Bền bỉ hơn, ám ảnh hơn bất kỳ ở đâu khác. Ở đây không có gì giữ khoảng cách cho chúng nữa. Như thể có điều gì đó trong cảnh quang đã không đông đặc lại được; như thể đang bồng bềnh trong không khí cũng sự khẩn trương e ngại của hai mươi năm trước.

Tôi chồm dậy lần nữa để mở cánh cửa sổ trông xuống lối ra vào của khách sạn được bao quanh bằng một chắn rào bê tông. Một ngụm những mùi ẩm ướt - mùi nước biển và mùi đất nhão - tràn ngập căn phòng của tôi. Mặt trăng ló dạng từng lúc một đàng sau những đám mây đang bay đua. Một ánh sáng dè sẻn, vài ngọn đèn điện thấp thoáng vẽ nên những đường viền quanh thành phố. Chúng tôi đang trong mùa xuân. Chính xác là đúng hai mươi mốt năm kể từ khi tôi nhìn ngắm cũng thành phố này đắm mình trong đêm.

Đó là vào tháng năm 1971. Du kích cộng sản lại một lần nữa tấn công Đông Hà. Tôi đang trọ chỗ Jean-Baptiste Etcharren, giáo sĩ thuộc Hội Thừa sai Paris và linh mục giáo xứ. Tôi leo lên mái nhà cùng với một giáo sĩ trẻ người Việt Nam. Chúng tôi đếm những quả pháo sáng đang rơi quanh chúng tôi, lơ lửng với những chiếc dù của chúng. Tiếng rền vang của những vũ khí tự động di chuyển lộn xộn về phía phải hay phía trái, theo chiều của trận đánh. Thỉnh thoảng, tiếng nổ đục hơn của một quả đạn súng cối khiến những tấm cửa kính của ngôi nhà rung lên. Sau đó, trong vòng một hay hai phút, một sự im lặng tuyệt đối quay trở lại. Cuộc đụng độ theo thông lệ, tiếng vỗ bập bềnh khó phân định của chiến tranh được người dân bình luận như đang kể về một cơn giông. «Tối nay, cuộc tấn công sẽ dài hơn lệ thường, vị giáo sĩ trẻ người Việt Nam ngồi xổm cạnh tôi trong bóng tối thì thầm. Hôm nay là ngày kỷ niệm đại chiến thắng Điện Biên Phủ.» (Ông nói «chiến thắng» không một giây ngập ngừng, ông ta, một người công giáo chống cộng ở miền Nam, vị giáo sĩ trẻ biết nói tiếng Pháp...) Ông nói thêm: «Những tối không có tấn công, người ta gọi đó là hoà bình. Đó là thứ hoà bình duy nhất mà họ biết được.»

Sáng hôm sau, chúng tôi ra ngoài phố với Etcharren. Những cửa hiệu bán lẻ đã mở cửa, thành phố đã trở lại với sinh hoạt bình thường. Trẻ con vừa chạy vừa cười dọc theo con đường chính, những cô thôn nữ bông đùa bên dưới những chiếc nón của mình cứ như trước đó chẳng có gì xảy ra. Ở trung tâm Đông Hà, những quân nhân thong dong của QL.VNCH [1] (quân đội miền Nam) đang trấn giữ nơi trước đây là tháp canh do người Pháp xây dựng. Tất cả có vẻ vô tư và thanh bình. Tất cả ngoại trừ một chi tiết: dưới chân cái tháp bằng đá tảng này, trên lớp bitum lấm bụi của đường phố, ba cái xác cộng quân được xếp thẳng hàng như những chiến tích trong một cuộc săn. Xác chết bẹp dí và vặn vẹo, tóc bết bùn tạo thành những túm như sợi gai. Dân chúng đến gần với một vẻ thản nhiên giả tạo và thỉnh thoảng dùng đầu bàn chân lật ngửa khuôn mặt của một trong những xác chết. Xác chết là của những đứa trẻ của vùng đất này đã đi bưng, do ý thích của riêng mình hoặc do áp lực. Người ta trưng bày xác của chúng để báo cho các gia đình biết. Và để hăm doạ họ.

Hôm đó, Etcharren chở tôi trên chiếc xe La Dalat của ông (xe Citroën chế tạo ở Việt Nam) đi thăm viếng nhiều ngôi làng trong vùng. Dân chúng trò chuyện với ông với thái độ tin cậy. Thỉnh thoảng ông gặp những người đại diện của Việt cộng, họ nói xa gần với ông về mối tương quan giữa chính trị và tôn giáo nhưng cuối cùng thì để yên cho ông. Ở đây, chiến tranh không giống chút nào thứ chiến tranh mà người ta «phủ lên» ở các căn cứ, các máy bay trực thăng hay các phân đội lục quân Mỹ. Nó không còn là cái bi kịch lớn lao và rền vang đó nữa. Tưởng chừng như nó đã vỡ tan thành vô vàn những câu chuyện nhỏ, một mớ bòng bong những thảm kịch gia đình mà có muốn cũng không thể nào làm sáng tỏ được. Có gia đình có hai đứa con ở trên bưng và một đứa trong QL.VNCH; một gia đình khác chứng kiến việc đứa con trai độc nhất của mình - giữa đêm khuya - bị buộc gia nhập hàng ngũ Việt cộng. Tôi còn nhớ nhận xét của một ông lão, ở một trong các ngôi làng bao quanh Đông Hà, nhận xét này nếu được thuật lại ở Paris hay ngay cả ở Sài Gòn, ắt hẳn sẽ có vẻ lạ lùng: «Chiến tranh đã kéo dài quá lâu. Bây giờ, kẻ mạnh phải thắng thôi.»

Tất cả những con người ấy không biết tôi là nhà báo. Etcharren giới thiệu tôi như một người bà con đến từ Pháp. Khi chu du với ông trong một chuyến đi dài xuyên đất nước trong chiếc xe La Dalat của ông, rồi những ngày trải qua ở Đông Hà, tôi đột ngột bị bứt ra khỏi một khung cảnh quen thuộc: khung cảnh của những briefings [2], những chiến dịch quân sự, những bữa ăn giữa đám nhà báo và những chuyến kinh lý bằng trực thăng. Tôi đã rời khỏi cuộc chiến tranh thuần quân sự, cái đất nước-ghép được đặt cọc tiêu một cách khá rõ ràng kia, để bước vào một đất nước Việt Nam thực sự. Đất nước mà không bao giờ một GI [3] nào có thể gặp được. Trong nhiều ngày dài, tôi đã bị đẩy vào những lối đi quanh co vô tận đó, những ngập ngừng làng quê đó, những gia đình phân rẽ đó. Mỗi tối, tôi trở về tu viện, lòng càng rối rắm hơn so với ngày hôm trước. Không có điều gì giản dị giống như người ta nói; không gì có thể cứ đột ngột mà phán xét được; không gì trùng khớp với những điều được nói lên một cách đại khái bởi những nhà chiến lược và những phóng viên chiến trường, bởi tất cả chúng tôi.

Tôi đã biểu lộ một thứ tuyệt vọng về nghề nghiệp mà không bao giờ tôi hoàn toàn gột bỏ được. Một cảm giác tuyệt đối bất lực và kiêu hãnh. Viết gì đây? Làm sao thuật lại được tất cả những điều đó? Báo chí dùng để làm gì? Mỗi một yếu tố của những gì tôi biết được ở đây đòi hỏi - một cách lý tưởng - phải được tường thuật lại với hàng nghìn sự cẩn trọng, được dẫn dắt chậm rãi, được sửa chữa và diễn đạt một cách tinh tế. Chẳng hạn việc những đứa trẻ bị buộc nhập ngũ đã nói lên điều hoàn toàn ngược lại với hình ảnh mà ở bên ngoài người ta thường có về Việt cộng. Nhưng không vì thế mà có nghĩa là tất cả các du kích đều chiến đấu vì bị ép buộc. Tương tự như thế, cuộc sống bình thường vẫn trở lại sau mỗi cuộc tấn công này không khớp với cách nhìn về ngày tận thế mà người ta vẫn có, ngay cả ở Sài Gòn, về tỉnh lỵ bên bờ vĩ tuyến 17 này. Nhưng làm thế nào nói lên điều đó mà không giảm nhẹ một cách quá đáng tính cách man rợ của các trận đánh? Hàng nghìn thí dụ khác khiến cho tâm trạng rối rắm hỗn loạn của tôi càng trầm trọng thêm lên.

Chiến tranh Việt Nam nhìn từ nơi đây trở thành một chủ đề không thể nào chịu nổi, một thực tế đánh lừa thị giác. Trong căn phòng nhỏ bé ở tu viện mà người ta cấp cho tôi, tôi đã trải qua những buổi tối trọn vẹn phó mặc cho sự hoài nghi. Phải chăng tôi đang rèn luyện? Liệu tôi có lường hết được những giới hạn kinh hoàng của việc làm chứng nói chung và việc làm chứng của báo chí nói riêng?

Tháng sáu 1992: tôi nhìn những ánh sáng tội nghiệp của Đông Hà từ căn phòng của mình ở khách sạn Đông Trường Sơn. Cảm giác khó chịu vẫn còn vẹn nguyên. Cả câu hỏi về việc làm chứng cũng thế.

*

Nguyên bản tiếng Pháp: «Dông Ha: à l'est des montagnes» (La Colline des Anges - Retour au Vietnam, JC Guillebaud, Seuil 1992)

Người dịch và giới thiệu: Phạm Thị Anh Nga



[1] Quân lực Việt Nam Cộng Hoà (ARVN trong nguyên bản)

[2] Tiếng Anh trong nguyên bản (có nghĩa là: những cuộc họp nhận chỉ thị trước khi bay)

[3] GI : Government Issue (tiếng Anh), từ dùng để chỉ lính Mỹ


lundi 19 janvier 2009

Trải nghiệm Hoa Kỳ và minh triết phương Đông (hay những trích đoạn tiểu thuyết «Ngài Đại sứ» của Morris West)


«Ba danh sĩ đối diện với một con chim cu bị nhốt trong lồng. Nobunaga nói «Tôi sẽ giết chết con chim cu này nếu nó không chịu hót», Hideyoshi nói «Tôi sẽ dụ nó hót». Iyeyasu nói «Tôi sẽ chờ cho đến khi nó hót»… Tôi xin hỏi ngài, thưa ngài Đại sứ: kẻ nào là người có lý?… Và ngài giống ai trong bọn họ?» (M.West)
Đây là những đoạn văn trích từ cuốn «Ngài Đại sứ» (The Ambassador, 1965) của nhà văn Úc Morris West (1916-1999), bản gốc được viết bằng tiếng Anh.
Cuốn sách kể về những trải nghiệm của một vị Đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam khi ông phải đối mặt với những biến động lịch sử của đất nước Việt Nam vào những thập niên 50 và 60 của thế kỷ 20, cũng như với tình trạng sa lầy của Mỹ tại Việt Nam. Ông chiêm nghiệm tất cả dưới ánh sáng của minh triết phương Đông, bởi tâm ông đã dần dần được khai sáng qua những dịp tiếp xúc với thiền sư Nhật Bản Musô Soseki.
Bản dịch dưới đây chủ yếu dựa trên bản tiếng Việt do Đào Nam chuyển ngữ (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh 1989), ở đây có bổ sung chỉnh sửa sau khi đối chiếu với bản dịch tiếng Pháp «L’Ambassadeur» và nguyên bản tiếng Anh.
(Phạm thị Anh Nga)




Trích đon 1 ( Nht, vi thin sư Nht bn Musô Soseki, khi nhân vt «tôi»-Đi s đã nhn công tác ti min Nam Vit Nam):
«Thưa ngài Đi s, ngài là người yêu mến nước Nht. Đây là điu có th làm ngài thích thú: Ba danh sĩ đi din vi mt con chim cu b nht trong lng. Nobunaga nói «Tôi s giết chết con chim cu này nếu nó không chu hót», Hideyoshi nói «Tôi s d nó hót». Iyeyasu nói «Tôi s ch cho đến khi nó hót»… Tôi xin hi ngài, thưa ngài Đi s: k nào là người có lý?… Và ngài ging ai trong bn h
 

Trích đon 2 (nhân vt «tôi»- Đi s đang công tác Vit Nam):
Đêm hôm đó tôi li mơ. Khung cnh vn như ln trước: cánh đng mênh mông, bng phng, đy ánh sáng. Nhưng ln này không còn nhng hình thù nhy múa và nhng bc tường na. Ch có bu tri sáng chói, mt đt bng phng và tôi. Tôi mc trang phc Nht Bn và ngi xếp bng tròn, hai tay chp li trước ngc, dáng điu ca người tham thin. Tôi biết mình đang đi thy Musô Soseki và khi thy đến, thy s cho tôi biết mt điu hết sc bí mt. Dù tôi có phi cô đơn, dù thy có đến tht mun cũng chng sao vì kiên nhn và k lut là cái giá không đáng k đ biết được mt điu khôn ngoan bí n.
Tôi nhm mt li, đ đu óc được trng như mt cái bát rng ch được đ đy. Tôi biết thy tôi s hài lòng và ngi khen tôi v thái đ này. Sau mt lúc rt lâu, tôi m mt ra, hy vng s thy thy Musô ngi trước mt tôi. Mt đt vn trng tri như bao gi - ngoi tr mt con chim nh màu nâu đu rt gn, nhìn tôi vi cp mt l đ như nhng ht bi. Con chim và tôi nhìn nhau sut mt phút mà không ai nói năng gì, ri nó nghnh đu lên, hết quay bên n li quay bên kia như th mun tìm hiu xem cái hình nh mc áo choàng, đi bít tt kia là gì.

Tôi đang cô đơn nên c tìm cách nói chuyn vi nó nhưng nó không tr li. Tôi hiu điu đó rt hp lý bi vì hoc là nó không hiu ngôn ng ca tôi, hoc là nó chng có gì cn thiết đ nói. Ri tôi bo nó hót. Nó vn đng đó yên lng, nhìn tôi dò xét. Tôi huýt sáo mt điu nhc ngn và đánh nhp cho nó hót. Nó không hót mà cũng chng nhy múa. Mt lúc sau, tôi hết c hơi nên huýt sáo không ni na. Tôi bt đu thuyết phc nó, mt nhân vt quan trng, mt ngài Đi s mà phi cư x như thế này thì tht là quá đáng. Thế mà con chim nâu vn không hót. Tôi tr li vi vic tham thin và không thèm đ ý đến nó na. Nhưng khi tôi m mt ra, nó vn còn đó, im lng và có v như giu ct. Tôi li thuyết phc nó. Nó vn không hót. Tôi li huýt sáo mt điu nhc và đánh nhp đ khuyến khích nó. Nó vn chng tht ra mt li. Vì thế tôi giơ tay lên và đp mnh xung mt cái bp vào cái đu đang nghnh lên ca nó! Tôi cm thy xương con chim b gãy vn và thân hình nó co rút li gia tay tôi và mt đt bng phng. Nhưng khi tôi nhc bàn tay lên, thì chng có gì đó c, mt cái lông cũng không còn. Và tôi bt đu khóc, khóc sướt mướt vì tôi cô đơn quá, chng có ly ngay c mt con chim đ hót cho tôi nghe…


Trích đon 3 ( Nht, cũng vi thin sư Musô Soseki, sau khi Tng thng min Nam Vit Nam b ám sát):

- Ngài đã tìm được li gii đáp cho câu hi liên quan đến con chim cu chưa?
- Ri . Tôi đã giết chết con chim cu.
- Thế là gi đây chng còn đâu tiếng hót cho ngài na phi không, dù là mùa đông hay mùa h?
- Tiếng hót chng còn mà chim cũng chng còn. Ch còn s oán trách ngày ngày đeo đui tôi.
- Con chim cu có oán trách ngài vì ngài đã giết nó không?
- Trong gic mơ thì không.
- Nhưng ngoài gic mơ ra, con chim cu còn là cái gì na?
- Khi gic mơ đã qua, con chim cu biến thành người.
- Ngài đã giết chết người đó sao?
- Tôi nói li đánh thc người th săn và người th săn đã giết người đó.
- Thế là con chim đã chết và người đó cũng đã chết. Chúng ta hãy nói v mt con sông.
- Con sông nào?
- Sông là gì?
- Sông là dòng nước chy t ch đt cao xung ch đt thp đ gp dòng nước khác.
- Nước luôn luôn thay đi, nhưng con sông vn thế. Vy vì sao nước li là sông được?
- Sông là nơi nước chy qua.
- Nhưng nếu không có nước, nơi đó ch là mt thung lũng trng không.
- Như thế sông chính là lòng sông, nước và dòng chy.
- Nào, bây gi tôi ném xung sông mt cây gy, mt hòn đá và mt con người. Vic gì s xy ra?
- Cây gy ni lên, hòn đá chìm. Con người bơi hoc chết đui.
- Còn con sông?
- Có thay đi nhưng vn là mt.
- Dù người đó biết bơi hay chết đui ư?
- Phi, dù người đó biết bơi hay chết đui.
- Thế con sông có lo ngi xem người đó làm gì không?
- Không, ch người đó lo ngi thôi.
- Ti sao người đó lo ngi?
- Bi vì anh ta biết mình không phi là dòng sông. Và anh ta biết rng mình biết. Và người biết thì đáng khâm phc nhưng li cô đơn khng khiếp.
- Bây gi chúng ta hãy nói v người biết. Khi ngài lên tiếng, ngài biết li nói ca ngài s đánh thc người th săn ch?
- Đúng thế.
- Thế ti sao ngài li lên tiếng?
- Bi vì nếu tôi không lên tiếng, nhng con ác thú có th s đến ăn tht hết chúng tôi. Nhưng người th săn cũng là mt con thú.
- Nhưng người th săn cũng là mt con người.
- Đúng thế.
- Vy là vi mt li nói ngài đã đánh thc con người ln con thú sao?
- Đúng thế.
- Và có mt con thú cũng đã tnh dy trong bn thân ngài?
- Vâng.
- Ngài có th tránh không đ nhng con thú y tnh dy ch?
- Phi, bng cách đng lên tiếng.
- Nhưng ngài được c đến đó đ lên tiếng cơ mà. Nhim v ca ngài là phi nói.
- L ra tôi không nên chp nhn nhim v đó.
- Vy thì ngài nên t trách mình vì điu này thì hơn, ch không phi vì cái chết ca người kia.
- Nhưng cái này là hu qu ca cái kia.
- Sao ngài biết?
- Tôi cm thy như vy.
- Cái ta cm thy không phi bao gi cũng là s tht.
- Tôi rt mun biết s tht.
- Ngài hãy nhìn nhng cây phong kia. Bây gi là mùa thu, mùa ca lá vàng rơi. Vy thì gió làm cho cây tri lá hay cây tung lá bay theo gió?
- Điu đó chng quan trng gì vi tôi vì tôi chng phi là lá cũng chng phi là gió!
- Không, đúng như thế đy! Ngài là lá, là cây, là thú, là gió. Vì ngài là người, nên ngài liên quan ti mi th và là tng th ca tt c.
-
Không! Không! Không! (Tôi cũng phi ngc nhiên và không hiu do đâu tôi li phn đi d di như vy.) Thy thy không? Tt c sai lm là ch đó – sai lm v bn thân, sai lm v chính tr. Tôi không phi là mt cái cây và nếu tôi mun cây phi mc theo đúng ý mình, tôi s làm cho nó thui cht hoc vn vo đi, như nhng cây bonzai trong vườn ca thy. Chúng tôi không phi là người Vit, hay người Nht, hay người Mã Lai. Do đó, làm sao chúng tôi có th bo h phi sng ra sao, phi tin vào đâu đ có th được tho mãn? Làm thế là dn đến ti ác, hu hoi và oán thù! Tôi biết. Tôi đã là mt công c.