Tôi không có dịp được học với
thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên
cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974
- 1975. Lúc bấy giờ, thầy Phạm Kiêm Âu đã là vị “giáo sư” cao niên,
là người thầy lớn tuổi nhất trường và tôi là người trẻ nhất, vừa
“chân ướt chân ráo” từ một trường huyện được chuyển về dạy các môn
văn chương và triết ở trường Đồng Khánh. Có thể nói, thầy đã đứng
trên bục giảng khi tôi chưa mở mắt chào đời. Dù cùng dạy một trường,
nhưng thầy Phạm Kiêm Âu đã là “đại sư phụ”, là thầy của một số thầy
từng dạy tôi.
Ở Đồng Khánh, thầy Phạm Kiêm Âu
nổi tiếng là “cuốn tự điển sống” của trường với phương pháp quản
lý và lưu trữ tư liệu về học sinh bằng sơ đồ ảnh và phiếu trích
ngang đặc điểm của mỗi học sinh, duy trì liên tục qua nhiều thế hệ;
nổi tiếng là người thầy rất nghiêm khắc, luôn đặt yêu cầu tối đa với
học sinh, cả trong học tập và trau dồi đức hạnh, nhưng lại rất “bênh”
học sinh, ưu ái dìu dắt học sinh. Thầy còn được biết là người từng
tham gia biểu tình chống Pháp bắt học sinh Trần Văn Ơn, bị thực dân
Pháp trục xuất khỏi Sài Gòn, nhưng lại là người dạy Pháp văn rất
hấp dẫn, là người gieo mầm cho học sinh say mê học ngôn ngữ và văn
hóa Pháp… Đại thể, trong chừng ấy năm tháng,
hình ảnh thầy Phạm Kiêm Âu đọng lại trong ký ức của tôi là một mẫu
hình người thầy mẫn cán, một nhà giáo bản lĩnh, hiểu biết sâu rộng
và … rất được nữ sinh Đồng Khánh ngưỡng mộ.
Những năm không còn đứng trên bục
giảng, bận rộn với trăm thứ đa đoan của cuộc đời, mỗi lần có dịp
ngồi lại với đám nữ sinh Đồng Khánh cũ của mình, trong những lúc
nhắc lại “Đồng Khánh mái trường xưa”, bao giờ tôi cũng nghe học sinh
say sưa nói về thầy Phạm Kiêm Âu như một hiện tượng. Đặc biệt, những câu
chuyện về thầy Phạm Kiêm Âu của
các học sinh Đồng Khánh lại chứa đựng rất nhiều chi tiết vừa dí
dõm, vừa cảm động, thể hiện tình cảm rất sâu đậm của học trò dành
cho thầy.
Và trong những trang hồi ức viết
về Quốc Học - Đồng Khánh, về thuở học trò ở Huế, từ các nhóm
Quốc Học – Đồng Khánh, Lá thư Phượng Vỹ… ở hải ngoại, đến một số
tạp chí, tập san, đặc san ở trong nước, những bài viết về kỷ niệm
một thời niên thiếu ở Huế đều thấp thoáng hình ảnh rất đặc biệt
của thầy Phạm Kiêm Âu.
Nhưng đến khi đọc xong cuốn sách “Thầy Phạm Kiêm Âu – Có một Người Thầy
như thế…”, với hơn 60 bài viết tỏ lòng hoài nhớ của học trò,
đồng nghiệp, bạn bè, người thân và cả những trang thư, bài viết của
chính thầy, được xuất bản nhân 20 năm ngày mất của thầy, hình ảnh
thầy Phạm Kiêm Âu lại hiện ra qua nhiều góc độ, tạo nên một tổng hợp
đa dạng, đa chiều hơn, không chỉ dừng lại trong những hồi ức kỷ niệm,
mà còn soi rọi đến những góc khuất rất sâu trong tận cùng những cảm
xúc, suy nghĩ và ước nguyện của chính thầy Phạm Kiêm Âu, phản chiếu
rõ hơn nữa, đặc biệt hơn nữa về thầy Phạm Kiêm Âu, đặc biệt như hiện
tượng độc đáo của Huế vào một thời rất xa, như hiện tượng - hay
đúng hơn là huyền thoại trường Đồng Khánh - đã bị đánh mất một cách oan uổng của
Huế.
Ở đây, hình ảnh thầy Phạm Kim Âu
đôi lúc rất lạ. Đúng là khó ai có thể hình dung một thầy Phạm Kim
Âu sau năm 1950 ở trường Chơn Phước Phượng - Đồng Hới, với hai chai bia
lùn đặt trên bàn, vừa uống bia vừa giảng bài; nhưng từ hồi đó, bản
sơ đồ ảnh của lớp học cũng đã xuất hiện và được thầy gìn giữ đến
sau năm 1975, qua bài viết thú vị của người học trò Nguyễn Lương
Phán.
Ngoài các bài viết quen thuộc
của những nữ sinh Đồng Khánh, lần nầy chúng ta còn đọc thấy nhiều
bài viết của các nam sinh như Trần Viết Ngạc, Nguyễn Đình Niên, Hà
Thúc Hoan, Trần Nguyên Vấn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc
Phan, Lê Tự Hỷ, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Minh Đức…với những nhận định
mới: “Thầy Phạm Kiêm Âu là ngoại lệ”
(Trần Viết Ngạc), “Thầy Phạm Kiêm Âu
là nhà mô phạm hiếm có” (Lê Tự Hỷ), “Thầy yêu đến tận tụy thiên chức cao cả của Thầy” (Hoàng
Phủ Ngọc Tường), “Thầy bất lực
nhìn bao nhiêu điều đẹp đẽ về cuộc sống Thầy đã ươm vào đầu chúng
tôi trong thời gian chúng tôi còn ngồi trên ghế giảng đường Đại học
đã không trở thành thực tế”…
Nhưng những bài viết dạt dào
tình cảm với thầy Phạm Kiêm Âu bao giờ cũng là những bài của nữ
sinh Đồng Khánh. Với họ, tiếng gọi “Thầy
ơi!” vừa rất trìu mến, rất da diết và tràn đầy nữ tính. Họ
không chỉ nhớ thương thầy của mình, mà còn thường xuyên giữ mối liên
lạc, nối kết thầy với bạn bè Đồng Khánh, tâm sự với thầy, chăm sóc
giúp đỡ thầy những lúc khó khăn, bàng hoàng tiếp nhận tin thầy qua
đời như nhận hung tin của gia đình, cùng nhau đóng góp tiền để xây
lăng mộ cho thầy và rồi cùng nhất trí chuyển tiền định xây lăng mộ
thầy thành quỹ học bổng Phạm Kiêm Âu…Đúng như nhận định của người
học trò Phan Bội Hoàn “Hiếm có một
vị thầy nào trên đời này lại được môn sinh kính trọng và luôn nhắc
nhở đến như Thầy Âu đã từng được”. Với con mắt tinh tế của một
nhà văn, Trần Thùy Mai còn đưa ra một nhận xét sắc sảo “Thầy là một con người rất ấn tượng,
một “nghệ sĩ” trong ngành giáo dục. Cách dạy và cách sống của Thầy
rất độc sáng, không ai có thể giống Thầy”. Nhà giáo Thái Thị
Ngọc Dư lại nhận ra “Thầy thể hiện lý tưởng giáo dục qua
hành động hàng ngày của mình”; ở thầy có “một tình yêu văn hóa Pháp hòa quyện với tình yêu Tổ quốc”…
Giữa vô vàn những lời xưng tụng
của các thế hệ học trò, và cả những bạn bè, người thân quen như
các thầy Phan Văn Dật, Nguyễn Hữu Thứ, Võ Đình Nam, bác sĩ Lê Bá
Vận…, thầy Phạm Kiêm Âu vẫn một mực khiêm cung, chỉ tự nhận mình là
“con đom đóm nhỏ” giữa cuộc đời.
Đọc những di cảo là thư từ của thầy gởi cho học trò, cho người thân
và bằng hữu, phần lớn được viết trong những năm tháng buồn và
nghiệt ngả ở cuối đời, giữa những tình cảnh oái ăm “thấy bao nhiêu sự thật chán chường về
công bằng, lẽ phải, tình đời..”, giữa những điều ngang trái về
nhân tình thế sự dễ làm cay đắng lòng người, nhưng nhiều bức thư của
thầy vẫn được mở đầu bằng dòng địa chỉ hóm hĩnh “Cố Đô - muôn thuở buồn, trầm lặng, cổ
kính và… đại kẹt!”, “Cố Đô -
muôn thuở trầm lặng, mơ buồn, cổ kính và ….nghèo!” theo đúng phong
cách rất Phạm Kiêm Âu.
Chừng như cả cuộc đời thầy Phạm
Kiêm Âu đã vận vào khá đúng với “năm
điều nguyện” độc đáo mà thầy đã tự đặt ra cho chính mình khi
chọn làm người thầy giáo:
1. Tôi
nguyện sẽ chịu có thân hình không tráng kiện, rất có thể thường đau
ốm hoặc ho lao.
2. Tôi
nguyện sẽ chịu cảnh giúp người, người lại vong ân, và người rất có
thể lấy ân làm oán.
3. Tôi
nguyện sẽ chịu sự bạc đãi ức hiếp.
4. Tôi
nguyện sẽ chịu sự nghèo.
5. Tôi
nguyện sẽ chịu sống tối tăm suốt đời.
Những lời thệ nguyện phảng phất
hơi hướm của một tu sĩ thuộc dòng tu khổ hạnh, nhưng thật ra, như
Trần Lạc Thư đã nhận xét khi nghe
thầy tự ví “Tôi chỉ là con đom đóm
nhỏ”. Con đom đóm nhỏ Phạm Kim Âu chưa bao giờ “sống tối tăm” mà ngược lại: “con đom đóm nhỏ mà ánh sáng khiêm tốn lập lòe trong sâu thẳm
tâm hồn của mỗi con người! Nơi ấy, ngay cả mặt trời chói chang cũng
không soi thấu được”.
Con người đó đôi lúc đã hóa thân
trở thành một hình tượng văn học, làm nền cho một số truyện ngắn
rất thú vị. Hai truyện ngắn “Đằng
sau một số phận” của Quỳnh Anh và “Hai đóa hoa Quỳnh” của Hoàng Phủ Ngọc Phan được chuyển tải
trong tập sách “Thầy Phạm Kiêm Âu - Có một Người Thầy như thế…” càng làm
cho hình ảnh Phạm Kiêm Âu thêm một lần nữa trở thành biểu tượng đẹp,
lung linh trong lòng người đọc
Viết về thầy của mình, Nguyễn
Lương Phán - người học trò từ năm 1950 ở trường Chơn Phước Phượng -
Đồng Hới đã ước ao “có cách chi để
Thầy tôi cũng có một đoạn đường mang tên Phạm Kiêm Âu! Và còn nhiều
thầy giáo, cô giáo xứng đáng lắm…. đáng được đặt tên cho những con
đường mà họ từng gắn bó…”. Tôi cũng nghĩ, theo một cách nhỏ nhoi
hơn, giá như ở ngay trong ngôi trường Hai Bà Trưng - “Đồng Khánh xưa” có
một thư viện, một sân chơi, một phòng thí nghiệm… mang tên cô giáo
Hiệu trưởng Đào Thị Xuân Yến (Bà Nguyễn Đình Chi), tên thầy Phạm Kiêm
Âu thì hay biết mấy, tình nghĩa biết mấy!
Thật tình, tôi cũng nghĩ đề nghị
của mình chắc gì đã được ai để mắt tới, nhưng với những điều đáng
nói, tại sao chúng ta lại ngại ngùng không nói.
Buổi ra mắt sách (Ảnh TĐT)
Buổi ra mắt sách (Ảnh TVN)
http://tapchisonghuong.com.vn/hue/p0/c107/n17414/Mot-vai-cam-nghi-nhan-doc-Thay-Pham-Kiem-Au-co-mot-nguoi-thay-nhu-the.html
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire