BẢN NHẬN XÉT BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHCN
CẤP TRƯỜNG
.
Tên đề tài: NGHIÊN CỨU MỘT SỐ TỪ NGỮ CÓ CHỨA ẨN DỤ TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC “CARMEN” CỦA NHÀ VĂN PROSPER MÉRIMÉE
Mã số: T2006-13-GD-NN
Người chủ trì: SV. NGUYỄN PHAN PHƯƠNG HẠNH
(K27, Khoa Tiếng Pháp, Trường Đai Học Ngoại Ngữ - ĐH Huế
.Nội dung nhận xét
.I. Về mục tiêu đề tài:
Đề tài nhằm tìm hiểu đặc trưng của phép ẩn dụ trong tác phẩm Carmen của nhà văn Pháp Prosper Mérimée, và cách dịch sang tiếng Việt. Đây là một vấn đề nằm ở vị trí giao thoa giữa các bộ môn Phong cách học, Văn học Pháp và Dịch văn học, là một hướng mở rộng và ứng dụng của chương trình học.
.
II. Về hình thức, tư liệu và phương pháp nghiên cứu:
.
Báo cáo tổng kết của đề tài được trình bày rõ ràng, bao gồm 19 trang (không kể phần phụ lục), phân bố như sau: 1 trang dành cho phần mở đầu, phần nội dung gồm 15 trang (8 trang cho chương 1, 7 trang cho chương 2), 3 trang phần nhận xét và đề xuất. Tư liệu tham khảo gồm 7 đề mục sách. Ngoài ra, trong phần phụ lục, có một bản đối chiếu những đoạn trích trong văn bản gốc bằng tiếng Pháp và bản dịch sang tiếng Việt..Tên đề tài so với đăng ký ban đầu là có đổi, mặc dù nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu vẫn giữ như trước.
Ngôn ngữ được sử dụng trong sáng, dễ hiểu. Các trích dẫn bằng tiếng Pháp không có lỗi, đây là điểm đáng khen. Tuy nhiên, diễn đạt trong tiếng Việt đôi khi khá vụng về, lủng củng, thậm chí có sai sót trong chính tả, nhiều lúc khó hiểu (ví dụ: “từ ngữ có chứa ẩn dụ” ngay trong tựa đề). Tổng số trang của báo cáo tổng kết là 19 trang, quá ít so với yêu cầu, nhưng lẽ ra nội dung phần phụ lục (bảng đối chiếu các trích đoạn tác phẩm Carmen và bản dịch tiếng Việt) có thể được lồng vào ngay phần nội dung chính (chương 2), như thế báo cáo sẽ dày dặn hơn. Ngoài ra, tác giả cũng cần giới thiệu về bản dịch tiếng Việt, tên dịch giả, nhà xuất bản, năm xuất bản… để người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về bản dịch. Tác phẩm gốc Carmen (tiếng Pháp) cũng cần nêu là sử dụng bản in của nhà xuất bản nào, in năm nào, để người đọc có thể đối chiếu những trích đoạn ghi ở trang 17 của báo cáo (tr.36, tr.70…).
Tư liệu tham khảo về cơ bản là tạm đủ, xử lý tốt. Phương pháp nghiên cứu không mới, có tính cổ điển, nhưng có thể xem là phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra. Xuất phát từ một số khái niệm cơ bản về phép ẩn dụ, tác giả ứng dụng để tìm hiểu những từ ngữ ẩn dụ trong tác phẩm văn học, phân tích các cách dịch, và đi đến một số đề xuất trong dịch và đọc tác phẩm.
.
III. Về nội dung và kết quả nghiên cứu:
.
Chương 1 với tựa đề “Một số khái niệm cơ bản” trình bày định nghĩa của ẩn dụ, cách phân loại, các từ loại được sử dụng trong phép ẩn dụ, cơ sở để tạo ra ẩn dụ, các nhân tố cho phép có sự liên tưởng đến nét tương đồng. Nội dung được trình bày có chọn lọc, công phu, khá rõ ràng, với nhiều thí dụ minh hoạ trong tiếng Pháp, chứng tỏ tác giả đã xử lý tốt các tư liệu tham khảo. Đáng tiếc là báo cáo không ghi rõ nguồn cụ thể của các cách phân loại, các phân tích, các thí dụ minh hoạ…, khiến cho người đọc còn e ngại về tính khoa học và đóng góp của tác giả đề tài. Ẩn dụ được đối lập với phép so sánh một cách rõ ràng, nhưng trong đối lập với phép hoán dụ thì vẫn còn sơ sài và mơ hồ, trong khi trên thực tế hoán dụ và ẩn dụ rất hay bị nhầm lẫn với nhau. Ngoài ra, các thí dụ minh hoạ đều có dịch sang tiếng Việt, là hợp lý, nhưng trong một số trường hợp cách dịch lại thiếu chuẩn xác (“une enfant” / “một đứa trẻ” thay vì “một đứa bé gái”, “la brume du silence” / “bầu không khí yên lặng” thay vì “màn sương yên tĩnh”). Tiêu đề “Sự khác nhau về bản chất của các đối tượng” dường như không phù hợp với nội dung, nên là “Các quá trình chuyển nghĩa” chẳng hạn, và trong mục 1.4.5. trang 7 (Gợi ra hình ảnh con người thông qua loài vật ) có thí dụ “C’est une fontaine” (đó là một vòi phun nước) và vòi phun nước lại là đồ vật chứ không phải là loài vật. Tuy có khiếm khuyết, nhìn chung, chương 1 vẫn xử lý thông tin lý thuyết đầy đủ, tạo cơ sở lý luận cho phần ứng dụng ở chương 2.
.
Chương 2 có tựa đề “Ẩn dụ trong tác phẩm “Carmen” của Prosper Mérimée”. Tác giả giới thiệu sơ lược về tác phẩm Carmen, và đi sâu phân tích phép ẩn dụ trong tác phẩm, theo ba loại : ẩn dụ theo nghĩa hẹp, ẩn dụ theo nghĩa rộng, và ẩn dụ theo chuỗi. Đây đúng ra là nội dung chính của đề tài. Nhưng so với nội dung phong phú của chương 1, thì nội dung phân tích ở chương 2 này khá mỏng, bỏ qua các phân tích về từ loại, về cơ sở để tạo ẩn dụ, về quá trình chuyển nghĩa (transfert) dựa trên những tương đồng về tính cách, màu sắc, hình dáng… Những phân tích ở chương này tỏ ra có tính thuyết phục, hấp dẫn người đọc. Tuy nhiên có một trường hợp cần lưu ý : “gorge étroite” (tr.11) dịch là “khe núi hẹp” chẳng qua là do trong tiếng Pháp “gorge” có nhiều nghĩa, tương đương với tiếng Việt là 1/ họng, 2/ ngực vú (đàn bà), 3/ hẻm, khe lũng, 4/ rãnh, hốc, 5/ cửa sau (Từ điển Pháp-Việt, Lê Khả Kế, NXB. KHXH), chứ không phải là do tác giả tìm tòi một cách dịch không sát nghĩa. Qua trường hợp này, cần lưu ý trường hợp dịch từ ngữ có tính đa nghĩa, và trong số các nghĩa đó có 1 nghĩa ẩn dụ. Một trường hợp khác là “Je flottais dans la plus grande incertitude” (tr.12), được dịch là “Tôi đang hết sức phân vân”. Trong trường hợp này, đáng tiếc là bản dịch tiếng Việt làm mất đi hoàn toàn tính cách ẩn dụ của bản ngữ, bởi có thể dịch là “Tôi đang bềnh bồng trong trạng thái tột cùng hoang mang” chẳng hạn.
.
Phần 3 (Nhận xét và đề xuất) bao gồm những nhận định rút ra từ việc phân tích ẩn dụ ở tác phẩm Carmen. Theo tôi, những nhận xét này có thể gộp vào cuối chương 2, để phần 3 này chỉ dành để kết luận và những đề xuất. Trong khi nhận xét, tác giả đã cố gắng tóm lại những nét đặc trưng của phép ẩn dụ được sử dụng trong tác phẩm Carmen cũng như trong cách dịch, kèm với các câu minh hoạ. Liệu có nên chăng phân biệt (1) trường hợp ẩn dụ vẫn được giữ nguyên trong khi dịch, và (2) trường hợp phải diễn đạt ý bằng một cách khác không có tính ẩn dụ. Ngoài ra, những thí dụ minh hoạ cho các cách dịch vẫn chưa thật thuyết phục. Chẳng hạn loại “dịch tương ứng” (bám sát nghĩa của từng từ trong cụm từ được dịch) có một thí dụ minh hoạ là “Tu es un canari” (Anh đúng là một con canari), “Cette femme est un démon” (Người đàn bà ấy thật là một con quỷ), trong khi những thí dụ “une gorge étroite” (một khe núi hẹp), “au pied des rochers”(dưới chân những tảng đá) lại được xếp vào loại “dịch tương đương” (dựa trên cơ sở bám sát nghĩa của từ, ngữ cảnh và các yếu tố văn hoá có liên quan […] dịch […] sao cho người đọc dễ hiểu nhất). Cuối cùng, những đề xuất (cho dịch giả và cho người đọc) là hợp lý, nhưng vẫn chưa phản ánh hết tính phức tạp của ẩn dụ và tác dụng của nó và còn chung chung.
.
Tóm lại, dù có những điểm chưa thật thuyết phục, nhìn chung đề tài đã đạt được mục tiêu đề ra, có hiệu quả tốt. Đây là một đề tài NCKH của sinh viên, nên càng đáng khen.
.
IV. Đánh giá chung:
.
- Tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn
Đề tài phù hợp với yêu cầu mở rộng của các môn học có trong chương trình và góp phần nêu rõ đặc điểm phong cách của ngôn ngữ văn học.
- Tính khoa học
Kết quả nghiên cứu đề tài chứng tỏ tác giả có khả năng nghiên cứu khoa học tốt.
- Khả năng ứng dụng vào thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể là gợi ý tốt cho một cách tiếp cận tác phẩm văn học và dịch văn học một cách có ý thức.
- Hiệu quả kinh tế, giáo dục...
Trong tình hình có sự giao thoa giữa các môn học, các ngành học, nghiên cứu này có thể dùng làm đề tài trao đổi thảo luận với các khoa Ngữ Văn, Ngôn Ngữ thuộc các trường Đại học bạn.
.
V. Những đề xuất:
.
- Về hình thức, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Ngoài một vài sơ suất nhỏ trong sử dụng từ ngữ hay câu cú (đã nêu ở trên), không có sai phạm nào đáng kể, không cần sửa chữa.
- Câu hỏi thêm (nếu có)
1. Xin tác giả cho biết việc phân loại ẩn dụ thành ẩn dụ theo nghĩa hẹp, ẩn dụ theo nghĩa rộng và ẩn dụ theo chuỗi là theo lý thuyết nào, tác giả nào. Có cách phân loại nào khác không, và nếu có, thì tại sao tác giả lại chọn cách phân loại này ?
2. Trong báo cáo, tác giả đề cập nhiều lần đến “ẩn dụ” và “ẩn dụ tu từ”. Xin nói rõ đó là hai khái niệm khác nhau hay chỉ là hai cách gọi của cùng một khái niệm.
- Đề nghị đưa ra hội đồng khoa học để nghiệm thu (hoặc không): Đề nghị đưa ra Hội đồng khoa học để tổ chức nghiệm thu.
- Xếp loại: Tốt.
.
Huế, ngày 22 tháng 2 năm 2007
Người nhận xét
Phạm thị Anh Nga
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire